Hỏi - đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
(QNO) - Hỏi: Tôi muốn hỏi khi người lao động đã rút bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần thì có nộp lại khoản này được không?
Trả lời: Theo Công văn số 2023/LĐTBXH-BHXH ngày 18/6/2012 của Bộ LĐ-TB&XH, đối với các trường hợp đã có quyết định hưởng BHXH một lần nhưng khoản tiền BHXH một lần thật sự chưa được chi từ quỹ BHXH, mà người lao động có đề nghị thì hủy quyết định hưởng BHXH một lần để bảo lưu thời gian đóng BHXH hoặc tiếp tục tham gia BHXH.
Như vậy, theo quy định nêu trên, trường hợp người lao động đã tự nguyện làm đơn đề nghị hưởng trợ cấp BHXH một lần và đã được cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ và ra quyết định giải quyết BHXH một lần cho người lao động, tại thời điểm giải quyết đã thực hiện đúng theo quy định của Luật BHXH về chính sách, hồ sơ, quy trình, thẩm quyền; số tiền BHXH một lần đã được chi ra khỏi quỹ BHXH, người lao động đã nhận đủ thì không thể trả lại tiền trợ cấp đã nhận để bảo lưu thời gian đóng BHXH.
Hỏi: Trong thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp, tôi tìm được việc làm mới và ký hợp đồng thử việc 2 tháng. Hết thời gian thử việc, tôi được công ty ký hợp đồng đào tạo 3 tháng có lương nhưng chưa được đóng BHXH. Vậy trong thời gian nhận lương hợp đồng đào tạo thì tôi có được trợ cấp thất nghiệp nữa không?
Trả lời: Tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.
Theo điểm b khoản 3 Điều 53 Luật Việc làm thì người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có việc làm.
Điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP quy định người lao động được xác định là có việc làm khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Đã giao kết hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
- Có quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm trong trường hợp này là ngày người lao động được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm ghi trong quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm.
- Có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với trường hợp người lao động là chủ hộ kinh doanh hoặc có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp người lao động là chủ doanh nghiệp. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày người lao động thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm về việc hộ kinh doanh hoặc doanh nghiệp bắt đầu hoạt động kinh doanh.
- Người lao động thông báo đã có việc làm cho trung tâm dịch vụ việc làm. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày ghi trong thông báo có việc làm của người lao động.
Tại khoản 3 Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định, người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thì trung tâm dịch vụ việc làm nơi người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp trình giám đốc sở LĐ-TB&XH quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động.
Quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp được trung tâm dịch vụ việc làm gửi: 1 bản đến BHXH cấp tỉnh để thực hiện việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người lao động; 1 bản đến người lao động.
Quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thực hiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH quy định.
Trường hợp ông có việc làm theo các quy định nêu trên thì trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày có việc làm, ông phải thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp và kèm theo bản sao giấy tờ có liên quan đến việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Nếu không thông báo đúng thời hạn nêu trên sẽ không được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với thời gian mà người lao động chưa nhận trợ cấp thất nghiệp (Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP).
BHXH tỉnh cung cấp thông tin để ông đối chiếu với trường hợp của mình, nếu ông thấy mình không thuộc đối tượng chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định nêu trên thì cung cấp hồ sơ có liên quan và liên hệ trực tiếp với trung tâm dịch vụ việc làm, sở LĐ-TB&XH nơi ông đang hưởng trợ cấp thất nghiệp để được giải đáp cụ thể hơn.
Việc ông trích dẫn quy định tại Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ là không phù hợp vì nghị định này đã hết hiệu lực thi hành kể từ khi Luật Việc làm số 38/2013/QH13 ngày 16/11/2013 được ban hành và có hiệu lực pháp lý.