Tác phẩm, tác giả

Tiếng Việt lắt léo và lịch lãm

NGUYỄN TUẤN BÌNH 18/08/2024 09:30

Sau “Lắt léo tiếng Việt” (2017) và bộ ba “Văn hóa Việt nhìn từ tiếng Việt (2021), nay Lê Minh Quốc lại cho ra mắt “Tiếng Việt - Lắt léo và lịch lãm” (NXB Trẻ - 2024). Có lẽ, Lê Minh Quốc muốn giúp gỡ rối chút bòng bong trong việc sử dụng tiếng Việt.

sách Q
Tác phẩm "Tiếng Việt lắt léo và lịch lãm" của nhà thơ Lê Minh Quốc vừa xuất bản. Ảnh: X.H

Đi tìm gốc gác

Dù là người Việt, chắc chắn rất nhiều từ cửa miệng trong ăn nói hàng ngày, ta không biết tại sao mình nói thế; chẳng hạn: trẻ trâu, ảo tung chảo, lùa gà, bom hàng… Cũng rất ít người đủ kiên nhẫn tìm hiểu để truy nguyên cho ra gốc gác câu từ.

Nhà thơ Lê Minh Quốc là một trong số ít người chịu giải thích những từ rất mới đó. Tôi để ý thấy anh nhiều năm quan tâm tới tiếng Việt với tâm niệm: “Một khi sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, hay ở bất cứ loại hình nghệ thuật gì, tôi nghĩ, chúng ta phải phấn đấu đạt đến tầm “rất Việt”: của người Việt, dành cho người Việt, vì người Việt.

Khi đi đến tận cùng của bản sắc Việt, tinh hoa Việt thì mới có thể hòa nhập vào dòng chảy văn hóa của nhân loại. Vì lẽ đó, hơn bao giờ hết, một khi chúng ta cùng tìm về “linh hồn tiếng Việt” thì bao giờ tính thời sự này cũng bất biến theo năm tháng”.

Này nhé, xiếc ở đâu mà ra? Lê Minh Quốc đưa ra dẫn chứng đạo diễn Việt Linh làm bộ phim “Gánh xiếc rong”. Còn nhà văn Mạc Can khi viết “Tấm ván phóng dao”, lại dùng từ xiệc, thí dụ: “Em nhớ rõ nhứt là khi cha rã gánh xiệc rong, ông lại về ở trong một khu nghĩa địa”.

Xiếc/xiệc cùng nghĩa nhau là vay mượn từ cirque tiếng Pháp. Không những thế, anh còn đưa những từ cùng hàm nghĩa như ảo thuật, thậm chí còn có nhà văn dùng từ mắc zịch như một cách chơi chữ…

Hay có những kiểu “đọc trại” mà ta không ngờ đến. Thử quan sát mẩu đối thoại trong quyển “Sài Gòn tạp pín lù” (1992) của học giả Vương Hồng Sển: “Nầy thầy Sáu! Hãy để đó, chạy tới bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?”. Ta cứ tưởng từ diếm ở đây xuất phát từ “giấu diếm” mà ra, nhưng không phải. Thật ra, diếm ở đây là nói trại của dám.

Mà đã thế ắt phải có lý do chính đáng gì đây? Hãy đọc ở một đoạn khác sẽ thấy câu trả lời: “Thầy cười nói tiếp: “Thưa cô, vì cô không dám phạm húy chữ “dám” trùng âm với “giám”, thái “giám” đụng chạm đến cái tiểu tật của ngài Tả quan Lê” (tr.37).

Chi tiết này góp phần cho ta hiểu rõ hơn nữa một đoạn ngắn trong chính sử: cho thấy người dân miền Nam tôn kính vị Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt tới nhường nào.

Tìm hiểu văn hóa một thời

Ngoài ra, anh còn dẫn dắt ta tìm hiểu một từ thật khó: “trô”. Tác giả đưa ta về phóng sự “Lục xì”, Vũ Trọng Phụng cũng viết: “Nếu thế thì ít ra cũng phải “trô” vậy, chứ không thì chán bỏ bố!”.

Trước hết cần khẳng định, “trô” không phải là từ vay mượn mà chính là tiếng lóng của dân hút xách nghiện ngập. Trô là tiêm/ hút/ hút thuốc phiện.

Tiếng lóng là các từ có tính quy ước chung do một số người “cùng hội cùng thuyền” sử dụng, trao đổi với nhau mà người ngoài nếu có nghe cũng không hiểu rõ, và bản thân tiếng lóng thay đổi theo thời gian, có thể mất đi hoặc cũng ám chỉ sự vật/ sự việc đó nhưng mỗi thời sử dụng từ mỗi phách. Do đó, khó có thể truy nguồn gốc ra đời của nó là do đâu, từ đâu?

Riêng với từ trô lại khác. Trong tác phẩm Ngọn đèn dầu lạc, nhà văn Nguyễn Tuân cho biết từ này được sử dụng từ năm 1925 với vai trò của chú Trô tên thật Phùng Văn Trô - “tị tổ của nghề bán đầu tiêm ở Hà Nội”. Có lẽ đây là một trường hợp hiếm hoi mà chúng ta có thể lý giải chính xác về sự ra đời của một tiếng lóng, cụ thể là trô.

Trong dằng dặc chữ nghĩa, Lê Minh Quốc đã phân chia tập sách của mình thành 4 phần với mạch bắt đầu các vốn từ vay mượn đã diễn ra đầu thế kỷ 20; phương ngữ miền Trung, miền Nam và các từ mới xuất trong thời gian gần đây.

Để làm công việc này, anh cho biết đã tự nhủ:“Từng ngày lầm lũi/ Nhẫn nại bền lòng”. Anh từ đi vào tự điển đến thâu nhận lời ăn tiếng nói hiện nay.

Tôi tâm đắc nhất khi anh còn dẫn chứng các văn liệu từ sách xưa, và nhất là từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Lê Minh Quốc lấy những tư liệu đó làm chuẩn, làm mẫu mực khi sử dụng, cũng là văn liệu dẫn chứng cho một từ, một vấn đề nào đó.

Có thể nói, tiếng Việt thú vị thay, bởi nó đã sống qua thời đại tạo ra nó. Tìm hiểu về nó là tìm hiểu về văn hóa một thời - như chính Lê Minh Quốc đã chia sẻ.

NGUYỄN TUẤN BÌNH