Biểu trần tình của Hoàng Diệu
Biểu trần tình thường được gọi tắt là Di biểu - là bản văn cuối cùng của Tổng đốc Hoàng Diệu viết cách đây 142 năm. Nhiều người cho rằng bản văn thể hiện đầy đủ khí chất của một người Quảng tiêu biểu.
Đầu năm 1880 khi đang làm Tham tri Bộ Lại ở Kinh, Hoàng Diệu được điều ra Bắc giữ chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội - Ninh Bình) với ý kiến của vua Tự Đức: “Lo cho dân Bắc Hà không ai hơn Hoàng Diệu”.
Hoàng Diệu và sự cố thành Hà Nội thất thủ
Từ lâu Pháp đã có ý định thôn tính cho bằng được Bắc Kỳ để vừa mở rộng thuộc địa của họ ở Đông Dương vừa sử dụng sông Hồng để giao thương với miền Nam Trung Hoa.
Thấy quân Pháp ra Bắc, Tổng đốc Hoàng Diệu lấy làm nghi kỵ và lo lắng. Ông một mặt sai quan Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử tế nhưng mặt khác, sai quân dọn dẹp thành trì để phòng bị.
Người Pháp thấy sự đề phòng của Hoàng Diệu thì ra sức phản đối, kể cả với Tự Đức. Nhiều lần Hoàng Diệu bị vua Tự Đức nhắc nhở không nên phòng bị quá đáng làm người Pháp lấy cớ đó để gây hấn. Hoàng Diệu vừa giả vờ làm theo lệnh của Tự Đức nhưng vừa gia tâm đề phòng âm mưu của giặc.
Khi Henri Rivière vào thành thấy cảnh phòng bị của quân dân ta tỏ ra không bằng lòng và quyết định đánh thành. Sáng 25/4/1882, Rivier đã gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu với những điều kiện ngang ngược, trong đó yêu cầu các quan tỉnh tự nộp mình.
Hoàng Diệu đã cử Án sát Tôn Thất Bá ra điều đình, tuy nhiên Tôn Thất Bá đã tư thông với giặc từ trước, nên bỏ trốn. Quân Pháp bắt đầu nổ súng.
Trong buổi sáng, ba tàu chiến của Pháp từ sông Hồng bắn phá vào thành, bộ binh tiến công thành Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu khi đó đang lâm bệnh nhưng vẫn chỉ huy chiến đấu. Tới 11 giờ, kho thuốc súng trong thành bốc cháy, sự việc bất ngờ làm tinh thần quân sĩ hoang mang.
Tranh thủ thời cơ, quân Pháp dồn lực đánh phá Cửa Tây, dùng thuốc nổ phá Cửa Bắc ùa vào trong. Quân ta bắt đầu tan rã. Khi thấy các cửa thành bị phá, và quân sĩ đã rối loạn, không thể chiến đấu, Hoàng Diệu đã quay vào hành cung vái vọng, thảo một tờ biểu cho vua Tự Đức, sau đó tự tử tại Võ Miếu.
Chuyện kể, trước khi đi nhận chức Tổng đốc Hà Ninh, Hoàng Diệu có về quê thăm mẹ. Ông có xuống làng Đông Bàn gần đó thăm vị đại thần Phạm Phú Thứ từ Bắc mới về chờ nghỉ hưu.
Sau gần một ngày đàm đạo hai vị đại thần hàng đầu của xứ Quảng rất am tường thời sự lúc bấy giờ đã bái biệt nhau. Người đời sau vẫn xem cử chỉ ấy như một lời vĩnh biệt. Sau đó hai ông không bao giờ còn gặp nhau nữa.
Biểu trần tình
Biểu trần tình được gọi tắt là Di biểu, là bản văn dài 436 từ theo thể tứ lục của Tổng đốc Hoàng Diệu viết vào chiều ngày 8 tháng Ba năm Nhâm Ngọ (26/4/1882) - ngay trước lúc ông chọn tuẫn tiết theo thành.
Hiện nay, Biểu trần tình vẫn còn hai bản mang tên Hà Ninh Tổng đốc Hoàng đại nhân di biểu (ký hiệu A996) và bản Hà Ninh Tổng đốc Hoàng công biểu văn (ký hiệu 1867) đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) Hà Nội. Di biểu được nhiều người dịch ra quốc ngữ, bản dịch lần đầu là của học giả Hoàng Xuân Hãn vào năm 1950.
Về nội dung, tuy chỉ là bản văn có 436 từ nhưng tác giả lại nêu được tương đối đầy đủ sự cố thất thủ thành Hà Nội lần thứ 2.
Trước hết, ông tự “kiểm điểm” mình: “Tôi, học vấn thô sơ, ủy dụng rất lớn”; “Một kiếp thư sinh chưa từng lo biên sự”.
Thứ hai, ông nêu vị trí quan trọng chiến lược của thành Hà Nội và phê phán gay gắt cách “chỉ đạo” sai trái của Tự Đức trong việc phòng thủ: “Tôi trộm nghĩ Hà thành là đất cuống họng của Bắc kỳ, lại là khu yếu hại của bản quốc. Nếu một ngày tan tành như đất lở, thì tất cả các tỉnh lần lượt mất như ngói bong. Tôi lấy làm lo. Khẩn tư các hạt, tâu lên triều đình. Xin cho thêm binh, may sớm kịp việc. Thế mà chiếu thư mấy lần ban xuống. Quở tôi việc đem quân dọa dẫm, bắt tôi tội chế ngự thất thời. Kính đọc lời dạy, thấy rất nghiêm khắc. Quan dân thất vọng, tiến thoái lưỡng nan”.
Thứ ba là tình hình trận chiến giữa ta và địch: “Quân giặc leo như đàn kiến, súng giặc nổ như sấm rang. Ngoài phố cháy lan, trong thành khí mất”; “Nó đủ ta kiệt; viện tuyệt, thế cùng. Vũ biền thì sợ giặc mà chạy hàng đàn, văn thần thì ngóng chừng mà tan cả lũ”.
Thứ tư, ông tự nhận trách nhiệm và cách xử lý: “Lòng tôi đau như cắt, một tay khôn cầm. Tướng lược không tài, tự nghĩ sống là vô ích; thành mất chẳng cứu, ví bằng chết cũng chưa đền. Đem thân tự quyên sinh, không thể học Tào Mạt hay dọa địch; treo cổ đền trách nhiệm, chỉ mong theo Trương Tuấn chết giữ thành”.
Cuối cùng là lời “trần tình” cho chọn lựa của mình: “Dám đâu trung nghĩa gọi là, chỉ vì sự thể bắt buộc” hay: “Mấy hàng huyết lệ, muôn dặm quân môn. Nguyện ánh sáng nhật nguyệt soi tỏ tấm lòng son của tôi mà thôi”.
Biểu trần tình vì thế là một tác phẩm đặc biệt. Bởi, trong tình huống nghiêm trọng như vậy, Hoàng Diệu vẫn đủ tỉnh táo để thực hiện một bản điều trần đầy đủ, thuyết phục, xúc động, đầy chất bi tráng.
Di biểu cũng thể hiện đầy đủ khí chất của một người Quảng - dám hy sinh vì đại nghĩa, xem cái chết nhẹ như lông hồng. Ông luôn nói thẳng, phê phán mạnh mẽ với cả nhà vua và ngay cả khi đã chọn cho mình cái chết.
Tinh thần phản biện triệt để, dứt khoát cũng như việc dám nghĩ dám làm và dám nhận trách nhiệm của Hoàng Diệu trong Biểu trần tình có lẽ luôn được đề cao và bây giờ vẫn còn nguyên tính thời sự.