Vua rắn Nagaraja
(Xuân Ất Tỵ) - Rắn thần Naga có gốc rễ sâu trong văn hóa dân gian và tôn giáo Ấn Độ cũng như Đông Nam Á. Các yếu tố thuộc tín ngưỡng Naga giữ vai trò quan trọng trong truyền thống văn hóa Champa, trong đó vua rắn Nagaraja được tôn thờ như một biểu tượng cao quý, thịnh vượng và bình an của vương quốc.
Có ba vị vua rắn quan trọng nhất trong văn hóa Ấn Độ, đó là vua rắn Naga, Shesha hay Ananta, có nghĩa là bất diệt. Ngoài ra còn có hai vua rắn khác là Vasuki và Samudra Manthan. Trong thần thoại Ấn Độ, vua rắn Vasuki, được tôn thờ như cột trụ tạo dựng vũ trụ trong sự kiện khuấy biển vũ trụ của chư thiện thần và ác quỷ.
Còn rắn Naga Panchami là tên một lễ hội truyền thống của Bà la môn giáo ở Ấn Độ được tổ chức hằng năm. Trong lễ hội này, các tín đồ cúng dâng sữa, hoa và cầu nguyện thần rắn Naga ban phước lành và bảo vệ khỏi bị rắn cắn, phúc lợi được sinh sôi và bội thu mùa màng.
Trong kinh điển Phật giáo, vua rắn Nagaraja được nhắc đến thường xuyên. Các vị vua rắn thường xuất hiện để nghe Đức Phật Cồ-đàm giảng kinh, cũng như để hộ trì ngài những khi ngài thuyết pháp.
Trong văn hóa Champa, vua rắn Nagaraja xuất hiện rất sớm trong một minh văn trên đá vào đầu thế kỷ 5 phát hiện tại Đông Yên Châu, một di tích chỉ cách Trà Kiệu khoảng hơn một cây số về hướng tây.
Theo nhận định của các nhà bi ký học, so với các ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian) bản địa khác, đây là minh văn khắc bằng tiếng Chăm cổ sớm nhất ở Đông Nam Á. Đáng lưu ý, yếu tố khắc tên vua rắn Nagaraja bằng tiếng Chăm cổ chỉ ra rằng tín ngưỡng thờ vua rắn đã được phổ biến ở Champa trong những thời kỳ trước thế kỷ 5, có thể cùng thời với vua Phạm Hồ Đạt hay Bhadravarman, trị vì khoảng năm 380 - 413, người đã thành lập thánh địa hoàng gia Bhadresvara hay Mỹ Sơn.
May mắn thay, một pho tượng vua rắn Nagaraja, có niên đại gần gũi với minh văn Đông Yên Châu, đã được H. Parmentier phát hiện tại nhóm tháp A của Khu đền tháp Mỹ Sơn vào năm 1903. Gần đây, tượng này được các chuyên gia trùng tu Ấn Độ tái phát hiện vào năm 2019 và đang được bảo quản tại Bảo tàng Mỹ Sơn.
Tượng được chế tác từ một loại đá hiếm thấy trong điêu khắc Chàm, có thể là cẩm thạch trắng và được đặt trên bệ thoát nước bằng sa thạch. Nagaraja ngồi dưới tán rắn năm đầu, tư thế ngồi và hai tay dang rộng đặt trên đùi, tương tự những tượng Chàm có niên đại sớm khoảng thế kỷ 6 - 7. Ngài có mái tóc búi xoắn lên cao, sau đầu có hai cái lỗ nhỏ có lẽ dùng để buộc một vật trang sức mang biểu tượng hình rắn của dòng họ Naga thường xuất hiện trên các tượng vua rắn trong nghệ thuật Ấn Độ. Đây là tượng Nagaraja duy nhất phát hiện được tại Mỹ Sơn.
Cùng với tượng Nagaraja Mỹ Sơn, một pho tượng Nagaraja khác cũng được phát hiện tại Tháp Po Nagar Nha Trang. Tượng này cũng được chế tác vào khoảng thế kỷ 6 - 7. Như vậy, có thể nhận định rằng vua rắn Nagaraja với thiên chức bảo vệ hoàng tộc Champa đã được thờ phượng đồng thời tại hai thánh địa hoàng gia ở miền bắc cũng như miền nam vương quốc.
Ngoài ra, một pho tượng Nagaraja bằng sa thạch khác, có thể phát hiện ở vùng Quảng Nam khoảng thế kỷ 8. Tượng còn rõ nét, thể hiện vị thần trong tư thế quỳ, hai tay chắp trước ngực, bày tỏ vẻ tôn kính chư thần hoặc hoàng gia (?). Trang phục theo lối vương giả, đeo nhiều đồ trang sức. Những ngẫu tượng Nagaraja này chứng minh tín ngưỡng Nagaraja để hộ trì vương quyền và hoàng tộc Champa được phổ biến rộng rãi tại vương quốc này trong nhiều thế kỷ.
Vào thế kỷ 7, trong một bi ký ở Mỹ Sơn dựng dưới triều vua Prakāśadharma năm 658, nhà vua nhấn mạnh dòng dõi cao quý của ngài thuộc hoàng tộc Bà la môn qua cuộc hôn phối giữa Kaundinya và Soma, mà công chúa Soma là con gái của vua rắn Nagaraja.
Nhà vua cũng ca ngợi cuộc hôn nhân giữa thân phụ ngài là đức vua Jaggaddharman đã du hành đến thành phố Bhavapura ở Campuchia, để cưới thân mẫu ngài là công chúa Sri Sarvani, ái nữ của vua Khmer Isanavarman, là người cùng huyết thống với công chúa Soma. Vì thế Nagaraja có một vị trí nổi bật trong tín ngưỡng hoàng gia Champa.