Hồ sơ - Tư liệu

Mùa xuân hòa bình đầu tiên

HỒ DUY LỆ 29/01/2025 09:00

(Xuân Ất Tỵ) - Ngay sau ngày hòa bình, 24/3/1975 tại Tam Kỳ và 29/3/1975 tại Đà Nẵng, một trong những nhiệm vụ cấp bách Ủy ban Quân quản phải lo là thiết lập ngay trật tự trị an. Mới đó mới đây mà đà nửa thế kỷ, chuyện lớn chuyện nhỏ vẫn trôi trong dòng ký ức thời gian...

20241123_104748-2.jpg
Bia ghi công các tổ chức, cá nhân đã ủng hộ, tham gia xây dựng công trình Đại thủy nông Phú Ninh do UBND tỉnh Quảng Nam lập bên lòng hồ. Ảnh: LÊ VŨ

Ngày ấy, ông Phạm Đức Nam - Sáu Nam - Phó Ban Quân quản giao cho Năm Dừa và Phan Văn Nghệ lấy thanh niên làm lực lượng nòng cốt, huy động lượng lớn ô tô, phát động và tổ chức đưa hàng vạn dân về quê, kể cả dân các tỉnh bạn chạy tránh bom đạn vào tá túc trong thành phố, thị xã.

Chỉ qua một thời gian ngắn, hàng vạn dân đã được tổ chức đưa về làng cũ. Tỉnh mở liên tiếp 3 chiến dịch ‘‘khai hoang vỡ hóa’’, ‘‘tấn công đồng cỏ’’, ‘‘phá dỡ bom mìn’’, để bà con bắt tay ngay vào phát cỏ, cuốc đất, trồng khoai, trồng rau để sớm có cái ăn - không để xảy ra nạn đói như kẻ thù tưởng tượng.

1. Những người dân về làng sau ngày chiến tranh làm “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” và đổ cả máu nữa: 540 người hy sinh, 3.150 người bị thương vì đụng phải bom mìn của giặc Mỹ đổ xuống làng quê còn rình rập trong lòng đất. Vẫn không đủ lương thực để ăn, vẫn cần chi viện của trên, bởi “đất ít người đông”, mà con cháu thì như tranh nhau chào đời để đón hòa bình.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Tỉnh ủy Hồ Nghinh, Sáu Nam, Mười Chấp và Năm Dừa kéo quân đi hết xã này đến xã khác, đồng thời vận động bà con “di dời mồ mả lấy đất cho sản xuất” - một chủ trương táo bạo, khi đụng đến tổ tiên, tộc họ, đụng đến tình cảm của bao gia đình. Một cuộc “phát động tư tưởng” coi bộ còn khó hơn phát động nhân dân gậy gộc xuống đường xông vào sào huyệt giặc.

Mỗi mùa mưa bão đến, ai cũng xót ruột khi thấy mồ mả ông bà ngập chìm trong nước lũ. Các cụ xúc động khi thấy ông Hồ Nghinh ra ngoài gò mả gặp nói chuyện với mấy lão nông tri điền, vào các nhà thờ tộc gặp nói chuyện với bô lão về cái lợi của việc di dời mồ mả vào nghĩa trang.

Thành quả của cuộc vận động là bà con vui mừng khi thấy hàng nghìn héc ta đất do mồ mả chiếm từ bao đời dọc hai bên quốc lộ 1 từ Hòa Vang vào đến Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình… trở thành những cánh đồng rộng, thẳng tắp, xanh xanh hai vụ lúa rồi tăng lên ba vụ.

Để vượt qua, tiến tới xóa nạn “giáp hạt” - “gió Nam thổi kiệt bảy ngày/ Khoai lang khô cũng hết, lúa vay cũng không còn”, Tỉnh ủy quyết định làm lúa tăng vụ giữa hai vụ chính trong năm là đông xuân và hè thu, bà con thường gọi là vụ tháng Ba, hay vụ Ba Trăng, và vụ lúa tháng Tám, ở phía nam tỉnh là lúa Đồi, lúa Trì...

Hai huyện lúa Điện Bàn và Duy Xuyên có hơn 5.000ha có thể đưa vào làm vụ trái này, đặt tên là vụ xuân hè. Tỉnh ủy giao cho Ty Nông nghiệp tính toán, giãn 2 vụ đông xuân và hè thu để có được trên dưới 90 ngày cho vụ lúa xuân hè, với giống IR20, NN1. Vụ lúa xuân hè năm đầu tiên sau mùa xuân hòa bình - năm 1976, thu về được 18.000 tấn, một vài đám ruộng ở Điện Bàn, Duy Xuyên đạt đến 4 tấn/ha.

2. Nước tưới vẫn xếp vị trí hàng đầu. Trên các diễn đàn bàn luận về sản xuất nông nghiệp, những địa danh quen thuộc có từ thời chống Pháp lại được đặt lên bàn nghị sự: ba ra An Trạch, đập Vĩnh Trinh, đập Thạch Bàn, đập Trà Lý, Khe Diên, Khe Thẻ và kênh Ba Kỳ.

Hồ sơ về con kênh Ba Kỳ được lật ra xem xét, tại sao người Pháp đã khảo sát, rồi xếp hồ sơ vào ngăn kéo? Và, tại sao thời Việt Minh, Quảng Nam từng huy động hàng nghìn người lên phá đá, ngăn sông Tam Kỳ để lấy nước chống hạn mà không thành công?

Quyết tâm không lay chuyển của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, bằng Lễ phát lệnh khởi công công trình Đại thủy nông Phú Ninh, vào sáng 29/3/1977, với hai mươi chín phát mìn vang dội núi đồi Tư Yên, Đá Đen, Yên Thành...

Từ chân đèo Tư Yên nhìn thấy hòn Chóp Chài - nơi mùa xuân 1974 quân Giải phóng tiêu diệt cứ điểm địch chốt trên đỉnh đèo này, giải phóng Đức Phú, phá vỡ phòng tuyến phía tây tỉnh lỵ Quảng Tín, mở một hành lang đưa xe cơ giới, pháo 130 ly tham gia chiến dịch lịch sử Xuân 1975.

Thanh niên nam nữ tuổi đôi mươi, lần lượt tập trung về điểm tập kết. Ngoài các quận, huyện, thị còn có TP.Đà Nẵng - là những thanh niên sau ngày giải phóng từng xung phong đi lao động khai hoang ở Ba Viên - sông Trường Định, đào gánh đất, xúc bùn, xúc rác ở công trường Hầm Bứa sau này là Công viên 29/3.

Thanh niên Đà Nẵng tập họp thành tiểu đội, trung đội theo nhau tiến lên công trường Phú Ninh, cùng với những chiếc ô tô tải nặng trĩu tôn và tre. Những ngày tiếp theo, những chiếc xe chở quà của Hội Phụ nữ cho riêng chị em và thực phẩm của bà con tiểu thương cho Bê hai (B2) Đà Nẵng.

Nhờ đại tu ba ra An Trạch, hồ Vĩnh Trinh, vụ xuân hè năm 1978, thắng tiếp ba vụ lúa xuân - hè. Hoàn thành đập chính nối núi Yên Thành và núi Đá Đen, chặn dòng nước sông Tam Kỳ, 370 triệu mét khối nước theo 50 cây số kênh, tưới hơn 20 nghìn héc ta lúa của Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn và một ít cho Duy Xuyên, đưa năng suất một vụ, thấp, bấp bênh, tăng lên hai vụ, ba vụ, năng suất 4 tấn, 5 tấn mỗi héc ta…

Huyện Điện Bàn xây dựng trạm bơm Vĩnh Điện, sau đó là trạm bơm Đông Quang, rồi đến trạm bơm Cẩm Lý, Cẩm Sa… Có nguồn nước tưới, các Hợp tác xã Điện Thọ 1, Điện Thọ 3, Điện Phước, đều cho năng suất lúa khá cao, nổi tiếng một thời. Huyện Điện Bàn thành công, cho nhiều bài học trong chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.

3. Duy Xuyên thay ‘‘Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ’’, thành ‘‘Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa’’. Vui sao những biền dâu xanh ngát trên các bãi nà ven sông Bà Rén, Thu Bồn, Vu Gia… Tiếng thoi đưa vang lên ở Mã Châu, Đông Yên, Thi Lai, nghề dệt chiếu được phục hồi ở Bàn Thạch, Duy Phước.

Bên những cánh đồng cao sản của Duy Phước, Duy An, xuất hiện thủy điện nhỏ Hợp tác xã Duy Sơn 2 với Chủ nhiệm Lưu Ban được phong tặng Anh hùng Lao động. Chận đứng cảnh giáp hạt. Tỉnh đưa công nghiệp, du lịch, dịch vụ lên hàng đầu, phát huy giá trị độc đáo của Di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, hội nhập kinh tế thế giới.

Nhớ mùa Xuân lịch sử 1975, leo lên bờ đập chính, nhìn mặt hồ trong xanh, vòng tay xin tạ ơn bà con Tam Sơn, Tam Lãnh, Tam Trà, đã bằng lòng rời làng ra đi. Nhớ và biết ơn những chiến sĩ Giải phóng quân năm xưa, bao người con trung kiên, gan dạ, nặng tình, nặng nghĩa… Cùng với họ là công lao, xương máu, những trận chiến đấu tử sinh… sẽ như Ba Kỳ, Tư Yên, Long Sơn, Ngọc Nha, Trường Cữu...

Tất cả là kỷ niệm, là tình yêu, là nỗi nhớ!

HỒ DUY LỆ