Đổi thay của nông nghiệp, nhìn từ thay đổi về đất đai
Ngày nay, nhờ tiến bộ khoa học công nghệ, con người có thể sản xuất nông nghiệp với nhiều phương thức hiện đại nhưng không vì thế mà vai trò của đất nông nghiệp bị giảm sút. Những đổi thay của sản xuất nông nghiệp nước ta đã và sẽ còn liên quan chặt chẽ đến những thay đổi về đất đai.

Tác động tích cực của dồn điền đổi thửa
Khi ruộng đất được hợp tác hóa, những năm 1980 ngân sách nhà nước đã hỗ trợ cho các địa phương cải tạo đồng ruộng. Nhiều cánh đồng được san phẳng và phân lại lô, thửa để thuận lợi cho canh tác. Tuy nhiên, do hạn chế của thời kỳ “3 khoán” nên sản xuất không được đầu tư thâm canh và cơ giới hóa đồng bộ để phát huy tác dụng của ruộng đồng đã được cải tạo, sản xuất nông nghiệp cả nước rơi vào trì trệ.
“Khoán 100” (1981) vẫn chưa tạo được biến chuyển đáng kể. Năm 1988, khi Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp của Bộ Chính trị ra đời, ruộng đất được giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài đã tạo cú hích làm tăng tốc kỳ diệu trong sản xuất nông nghiệp.
Nhưng việc thực hiện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài theo nguyên tắc “có gần, có xa, có tốt, có xấu”, làm ruộng đất bị manh mún.
Từ sau năm 2000, đã có một vài địa phương chủ động thực hiện dồn điền đổi thửa (DĐĐT). Cuối năm 2007, Quảng Nam ban hành cơ chế khuyến khích để thực hiện chủ trương DĐĐT đất nông nghiệp (theo Quyết định 58/2007/QĐ-UBND, giới hạn trong các loại đất trồng cây hàng năm và đất nuôi trồng thủy sản ven sông).
Mọi thay đổi về ruộng đất đã giao cho nông hộ không dễ dàng như thời kỳ ruộng đất chung của HTX, nhưng nhờ các địa phương xây dựng phương án triển khai cụ thể, trong 3 năm (2008 -2010), toàn tỉnh đã DĐĐT được gần 12.000ha.
Quảng Nam có cơ chế để nối tiếp thực hiện (Quyết định 23/2011/QĐ-UBND), hơn 6.000ha được DĐĐT giai đoạn 2011 - 2015. Những năm tiếp theo vẫn còn DĐĐT một số nơi chưa làm kịp; lũy kế cả tỉnh đã DĐĐT được hơn 18.500ha, chủ yếu là đất lúa, tập trung ở các huyện đồng bằng.
Cùng với DĐĐT, Quảng Nam cũng hỗ trợ hoàn thiện các công trình phục vụ sản xuất, dân sinh. Nhờ đó, trước khi có chương trình xây dựng nông thôn mới, khối lượng đường giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng được bê tông hóa đã đạt tỷ lệ khá.
Từ năm 2011, nhờ sự tiếp sức của chương trình xây dựng nông thôn mới, hệ thống kênh mương nội đồng và các trục giao thông nội đồng chính nối với hệ thống giao thông nông thôn được cứng hóa khá hoàn chỉnh, trên quy mô không gian rộng hơn nhiều phần diện tích đã DĐĐT.
Nhiều vùng đất canh tác được hoàn thiện hạ tầng phục vụ sản xuất, thuận lợi cho hình thành những cánh đồng lớn, hợp tác, liên kết sản xuất. Trong đó, hiệu quả, bền vững là những vùng liên kết sản xuất hạt giống lúa, bắp ổn định hằng năm trên 5.000ha.
Từ năm 2011, Quảng Nam chủ trương DĐĐT, chỉnh trang đồng ruộng gắn với cơ giới hóa. Chỉ trong vài ba năm đầu thực hiện cơ chế hỗ trợ một số khâu trong sản xuất nông nghiệp (theo Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND ngày 17/11/2011), số lượng máy kéo 4 bánh, máy gặt đập liên hợp tăng rất nhanh, đủ khả năng đáp ứng sản xuất.
Hiện nay, ở đồng bằng, tỷ lệ cơ giới hóa đạt gần 100% khâu làm đất và thu hoạch lúa. Các cây trồng cạn do sản xuất phân tán hơn lúa, khó áp dụng cơ giới hóa nên cần nhiều lao động. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm nông dân ngại chuyển đổi từ canh tác lúa sang cây trồng cạn.
Lao động nông nghiệp ở Quảng Nam cũng ngày càng thiếu nhưng ruộng đất bị bỏ hoang hóa thấp hơn nhiều địa phương khác là nhờ cơ giới hóa.
Cần thay đổi lớn hơn về đất
DĐĐT, chỉnh trang đồng ruộng đã giúp diện tích thửa đất lớn hơn, giảm số thửa/hộ, tập trung hơn nên giảm cự ly canh tác. Nhưng không giúp tăng diện tích đất nông nghiệp để tăng quy mô sản xuất mỗi nông hộ.
Với quy mô diện tích khoảng 0,6 - 0,8 ha/hộ hiện nay, dù có tăng gấp đôi giá trị sản xuất/ha và tăng thêm tỷ suất lợi nhuận thì thu nhập cũng không được cải thiện đáng kể.
Trong khi đó, thu nhập từ các ngành nghề phi nông nghiệp khác cao hơn. Đa phần người trẻ nông thôn chọn rời bỏ nông nghiệp, có tình trạng con nhà nông nhưng không biết làm nông đang rất phổ biến.
Nhiều thanh niên trẻ khỏe bị mất việc tạm thời phải về quê nhưng chỉ ngồi chơi mà không phụ giúp được cho cha mẹ già làm việc đồng áng. Từ đó, đất bỏ hoang hóa không nhiều nhưng quảng canh, cho thuê/mượn đất nông nghiệp là khá phổ biến.
Ở chiều ngược lại, nhiều nông dân mua (tự thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất không qua thủ tục theo quy định) hoặc thuê/mượn lại ruộng đất, mua sắm máy móc để canh tác có hiệu quả với quy mô từ 2 - 3ha trở lên.
Có những người trẻ “bỏ phố về làng” để khởi nghiệp từ nông nghiệp. Đó là những tín hiệu đáng mừng, cũng là thực tiễn để thúc đẩy tích tụ đất đai. Để người có nhu cầu tự tìm cách tích tụ đất đai dễ dàng, cần có cơ chế hỗ trợ, hướng dẫn xây dựng phương án và chỉ đạo triển khai thực hiện.
Trong nhiều năm nữa, nông hộ vẫn là chủ thể sản xuất nông nghiệp hiệu quả và bảo đảm cho phát triển nông thôn bền vững. Tích tụ ruộng đất để tăng quy mô sản xuất mỗi nông hộ, sẽ là một cú hích để tạo động lực mới cho sản xuất nông nghiệp phát triển.
Từ năm 2017, 2018, Quảng Nam đã tổ chức đi học tập ở các nơi và triển khai thực hiện ở vài địa phương nhưng khó khăn do chưa có các quy định cụ thể. Nay đã có Nghị định quy định thi hành Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2024, địa phương có thể chủ động triển khai.
Khi công nghiệp, dịch vụ phục hồi, phát triển sẽ đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động. Chậm thực hiện tích tụ đất đai, sản xuất nông nghiệp sẽ khó đáp ứng các yêu cầu tạo bứt phá để cạnh tranh, phát triển và duy trì được nhịp độ tăng trưởng ổn định.
Tích tụ ruộng đất để hình thành lớp nông dân mới, là những “tiểu điền chủ, đại điền nông” sẽ là nhân tố thúc đẩy hợp tác, liên kết, ứng dụng khoa học công nghệ, tạo bước chuyển về chất cho sản xuất nông nghiệp.