Văn hóa

Hành trình xuân vận

NGUYỄN DỊ CỔ 06/03/2025 13:56

(VHQN) - Người xưa đã đúc rút “nhất niên chi kế tại ư xuân” - kế một năm bắt đầu từ mùa xuân. Những việc trọng đại quốc gia như đăng cơ, đổi hiệu, dời đô, động binh, thi cử… thường diễn ra vào mùa xuân. Những việc ấy tạo nên hành trình xuân vận khí thế, kỳ vọng. Không chỉ vậy, xuân vận còn tạo nên hành trình mở mang bờ cõi, dựng xây miền kinh tế mới.

z6346782525348_beea219975ee0fb18392523f91cf15f8(1).jpg
Mùa xuân trên đường làng, ảnh chụp tại Duy Xuyên. Ảnh: NHẤT TƯ

Khởi đầu

“Xuân vận” là một từ Hán Việt mới, gồm 2 yếu tố “xuân” và “vận”. “Xuân” là mùa xuân, “vận” là vận chuyển. “Xuân vận” là chỉ hành trình di chuyển trong thời điểm mùa xuân.

Từ “xuân vận” mà truyền thông Việt Nam sử dụng trong thời gian qua thường là để đưa tin việc xuân vận của Trung Quốc. Từ sau cải cách mở cửa (1979), phong trào về quê ăn tết của người dân Trung Quốc được nhà nước gọi là “xuân vận”.

Từ ngữ “xuân vận” chính thức xuất hiện đầu tiên trên Nhân dân nhật báo vào năm 1980. Và, từ đó, “xuân vận” trở thành một tiêu điểm đáng chú ý của xã hội Trung Quốc. Năm 2024, Trung Quốc xuất bản cuốn sách “Xuân vận 1954-2024 - chuyện kể của nước, ký ức của dân”. Theo đó, diễn biến khái niệm của “xuân vận” cũng được phân thành các giai đoạn 1954 đến thập niên 1970, thập niên 1980, thập niên 1990 đến thập kỷ đầu thế kỷ 21, giai đoạn 2010 đến nay.

Từ ngữ “xuân vận” được sử dụng sớm ở Trung Quốc, nhưng Việt Nam chúng ta sử dụng tương đối muộn, từ đầu thế kỷ 21. Ấy là vì phải từ sau thời kỳ bình thường hóa quan hệ, truyền thông Việt Nam mới bắt đầu đưa tin về tình hình Trung Quốc, trong đó có hiện tượng xuân vận. Từ đó, Việt Nam dần dần quen và sử dụng từ ngữ này.

Xuân du mở mang bờ cõi

Mùa xuân Tân Sửu 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông “vân du các nơi, sang Chiêm Thành” và “hứa gả” công chúa nhà Trần cho vua Chiêm Thành.

lhggvejrvxzyieffljgvwirvxzyyieffnivwmsvbrzyyiefxiuwcwwbbrzyyifxiuvcwwcbbrzy4fvievcwwgcbbrz4lfj-_azdgz6ap7o3caaaaaelftksuqmcc.jpg
Bìa sách “Xuân vận 1954-2024 - chuyện kể của nước, ký ức của dân”.

Đây là cuộc xuân du phương Nam mở ra trang sử mới của dân tộc và cũng mở mang bờ cõi cho quốc gia Đại Việt. Bằng chứng là vào mùa xuân 4 năm sau, tháng 2 năm 1305, “Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn”.

Hai hành trình “xuân vận” này đã đưa đến cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân vào năm 1306. Theo đó, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến sông Thu Bồn.

Ngày đầu xuân Tân Mão 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh “xuân vận” quân binh vào đất Chiêm Thành, “vua thân hành soạn ra Bình Chiêm sách, ban cho các doanh”. Với hành trình “xuân vận” này, bờ cõi Đại Việt mở rộng đến núi Đá Bia, danh xưng Quảng Nam cũng ra đời từ đó.

Mùa xuân 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam Nguyễn Bá Quỳnh về trấn thủ Nghệ An, nên chúa Nguyễn Hoàng bèn kiêm quản xứ Thuận Hóa, Quảng Nam.

Sử tịch chú thích “Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện. Phủ Thăng Hoa, lĩnh 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang; phủ Tư Nghĩa lĩnh 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang; phủ Hoài Nhân, lĩnh 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn”. Chúa Nguyễn Hoàng đã tổ chức một cuộc “xuân vận” dời dinh sang xã Trà Bát (về sau gọi là dinh Trà Bát - NV). Từ dinh này, chúa Nguyễn Hoàng quản lý càng thêm chặt chẽ lãnh thổ Đàng Trong.

z6346607660127_9a464ca9f4311675bd6a39476fba9bda.jpg
Biển Lai Viễn kiều từ chuyến xuân du của chúa Nguyễn Phúc Chu. ảnh: DỊ CỔ

Hình thành phương Nam

Sách “Đại Nam thực lục” ghi lại việc hình thành vùng đất Nam Bộ từ cuộc “xuân vận” 1679. Chép rằng: “Tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm, Tổng binh Trấn Thượng Xuyên và Phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bô thần nhà Minh (bề tôi vì nước mất mà bỏ trốn ra ngoài - NV), nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ”.

Quần thần chúa Nguyễn bàn bạc rằng: Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dung, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố (tên cổ của Gia Định) nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều.

Xuân vận miền kinh tế mới
Sau năm 1975, nhà nước ta tổ chức nhiều đợt di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Phần lớn những cuộc đi kinh tế mới này thường diễn ra vào mùa xuân - mùa đi trẩy lộc trong thời khắc sinh khí mới của đất trời. Một số vùng đất Tây Nguyên được khai hoang, vỡ hóa từ những đoàn thanh niên xung phong của Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng.

Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng, trao cho quan chức khiến đến ở đất Đông Phố. Bọn Ngạn Địch đến cửa khuyết tạ ơn để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Lôi Lạp (nay thuộc Gia Định), đến đóng ở Bàn Lân (nay thuộc Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập.

Sau đó, mùa xuân 1698, chúa Nguyễn “sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính/Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở vào Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền”.

Xuân vận gắn liền với kinh lý. Mùa xuân 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu “đi thăm dinh Quảng Nam, duyệt binh mã, rồi đến phố Hội An, nhân thấy phía tây phố có cầu, là nơi thuyền buôn tụ họp, nên đặt tên là cầu Lai Viễn, viết chữ biển vàng ban cho”.

Sau những cuộc “xuân vận”, bờ cõi luôn được mở mang.

Ngày nay, sau tết Nguyên đán, người Quảng lại nối nhau xuân vận về phương Nam, tiếp tục hành trình truy cầu cái “vận” như “xuân”.

NGUYỄN DỊ CỔ