Từ chiến dịch Nông Sơn - Trung Phước đến giải phóng quê hươngBài 1: Mở đường thắng lợi cho chặng cuối
Sau Hiệp định Paris 1973, ta và địch giằng co giành từng mét đất. Để đi đến ngày Quảng Nam hoàn toàn giải phóng là cả chặng đường cam go đầy gian khổ. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Giải phóng tỉnh Quảng Nam (24/3), dựa trên “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1930 - 1975)” và “Lịch sử Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Nam (1954 - 1975)”, Báo Quảng Nam tổ chức vệt bài tư liệu khắc ghi lại từng mốc son trên chặng đường giải phóng quê hương, khởi đi từ Chiến dịch Nông Sơn - Trung Phước.

BÀI 1: MỞ ĐƯỜNG THẮNG LỢI CHO CHẶNG CUỐI
Sau Hiệp định Paris 1973, chiến trường Quảng Nam, Quảng Đà có 3 khu chiến:
Khu chiến 1 là Nông Sơn - Trung Phước, lực lượng có Sư đoàn Bộ binh 2, Trung đoàn Pháo binh 572, Trung đoàn Pháo cao xạ 573.
Khu chiến 2 là Thượng Đức, lực lượng có Sư đoàn 304 của Bộ tăng cường, gồm 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo.
Khu chiến 3 là tây quận lỵ Quế Sơn, lực lượng có Trung đoàn Bộ binh 38 và bộ đội địa phương 3 huyện Thăng Bình, Quế Sơn, Quế Tiên.
Tháng 6/1974, Tỉnh ủy Quảng Nam ra nghị quyết về tấn công và nổi dậy tiêu diệt các đồn bốt, cứ điểm ở phía tây của tỉnh để mở rộng vùng giải phóng. Trong đó, Nông Sơn - Trung Phước là một trong những cứ điểm quan trọng cần đánh chiếm.
Chuẩn bị kỹ, đánh nhanh - thắng nhanh
Muốn đánh được Nông Sơn - Trung Phước ta cần phải mở tuyến đường phục vụ cho việc vận chuyển khối lượng lớn vật chất vào khu chiến và đưa pháo binh vào chiếm lĩnh trận địa. Khó khăn nằm ở chỗ, do địa hình nên con đường phải chạy ven dưới chân các chốt điểm của địch ở Hòn Chiêng, Động Mông, Đá Hàm. Làm sao để che mắt địch?
Trong cái khó “ló” giải pháp. Lấy cớ thực thi Hiệp định Paris, Tỉnh ủy Quảng Nam, Huyện ủy Quế Sơn và nhân dân địa phương đấu tranh buộc địch phải để ta mở đường vận chuyển lương thực cho nhân dân các vùng giải phóng.
Theo đó, Công binh Sư đoàn 2 cùng nhân dân ban xúc, ủi đắp cả đường trục và đường nhánh; làm đến đâu tổ chức vận chuyển hàng đến đó. Để bình thường hóa các hoạt động cơ giới, ta đưa một máy cày xuống cánh đồng Sơn Khánh.
Tiếng máy cày gầm rú trên đồng ruộng đã phần nào che lấp tiếng ô tô vận chuyển. Ban ngày xe của ta không ngụy trang, đến từng chặng thì dừng lại đổ gạo cho dân, chứng tỏ xe chỉ chở gạo như đã thông báo với địch, nhưng đạn ta xếp kín dưới đáy thùng xe.
Với sự khôn khéo đó ta đã đưa 781 tấn vũ khí, lương thực vào khu chiến trước hai ngày quyết định tiến công mà địch không hay biết.
Nông Sơn - Trung Phước là cụm cứ điểm lớn, cách Đà Nẵng 45km đường chim bay về phía tây nam. Có khoảng 1.500 dân vệ, bảo an chốt giữ các cứ điểm nhỏ rải từ Khương Quế - Phường Rạnh đến Trung Phước.
Tiểu đoàn biệt động biên phòng 78 của địch chốt giữ cứ điểm Nông Sơn và đỉnh Cà Tang, khống chế toàn bộ khu vực này. Chúng xây dựng ở Nông Sơn 41 lô cốt kiên cố, 1 trận địa pháo và nhiều hầm ngầm, công sự chiến đấu; chung quanh có 9 lớp rào kẽm gai. Đây là nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm gây tội ác đối với nhân dân vùng giải phóng Hiệp Đức - Quế Sơn.
Theo kế hoạch ngày 17/7/1974, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu nổ súng tấn công tiêu diệt Nông Sơn - Trung Phước. Giữa lúc các đơn vị của sư đoàn đang triển khai chiếm lĩnh trận địa thì địch đưa Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 ngụy lên thay Tiểu đoàn biệt động biên phòng 78. Tuy địch có tăng quân, nhưng Sư đoàn 2 của ta vẫn giữ vững quyết tâm nổ súng.
Đêm 17 rạng sáng 18/7/1974, ta nổ mìn phát lệnh tiến công tại điểm cao Cà Tang. Đến 6 giờ ngày 18/7, ta quét sạch hệ thống chốt điểm của bọn bảo an dân vệ, đưa bộ đội áp sát cứ điểm Nông Sơn; xây dựng thế trận vây lấn. Thực hiện “đưa pháo lên cao, vào gần, bắn thẳng”.
Đến 16 giờ cùng ngày, ta phá tung 38 trong số 41 lô cốt địch, và chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau đó quân ta đã làm chủ hoàn toàn Nông Sơn - Trung Phước; loại ra khỏi vòng chiến đấu 2 tiểu đoàn chủ lực, 2 đại đội bảo an, 13 trung đội dân vệ và toàn bộ bộ máy kèm kẹp của địch, giải phóng gần 13.000 dân.
Đánh cho ta mở ra, địch co lại
Bị một đòn khá đau khi mất Nông Sơn - Trung Phước, địch liền tập trung lực lượng đối phó. Chúng điều Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 ngụy triển khai đội hình chiến đấu từ đập Thạch Bàn đến Đông Bắc điểm cao 45, phía nam An Hòa - Đức Dục 2 cây số. Viện binh địch đã xuất hiện, thời cơ diệt lớn quân chủ lực ngụy đã mở.
Bằng nhiều cách đánh sáng tạo, từ ngày 19 đến 24/7/1974, các trung đoàn của Sư đoàn 2 ta đã diệt gọn 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn khác, loại Trung đoàn 2 ngụy ra khỏi vòng chiến đấu. Địch phải điều liên đoàn biệt động quân đang càn quét ở Gò Nổi, Xuyên Thanh lên thay thế Trung đoàn 2, giữ An Hòa - Đức Dục.
Theo đúng kế hoạch đã định, đêm 23 rạng ngày 24/7/1974, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 của tỉnh tiến công cứ điểm ngã ba Trùm Giao, bao vây cô lập cứ điểm Giáng La.
Bộ đội địa phương huyện Điện Bàn tiêu diệt điểm Kiến Thiết, làm chủ khu dồn ngã tư Điện Bình. Tiểu đoàn pháo binh 575 liên tục bắn phá cứ điểm Bồ Bồ, Bình Long gây cho địch nhiều thiệt hại. Du kích xã Điện Tiến đánh ấp Châu Sơn, hỗ trợ quần chúng nổi dậy đốt phá khu dồn Bung về quê cũ.
Chiến sự ở vùng A, B Điện Bàn sôi động, đường 100 bị uy hiếp, địch sử dụng 6 đại đội bảo an mở cuộc hành quân giải tỏa, trọng điểm là đoạn từ Nông Sơn đi Trường Giảng, nhưng các mũi tiến công của chúng đều bị quân ta đánh, không thực hiện được ý định.
Ngày 26/7/1974, Tiểu đoàn bộ binh 76 (của TP.Hải Phòng kết nghĩa gửi tiếp viện chiến trường Quảng Đà từ cuối năm 1973) và 2 đại đội của Tiểu đoàn 2 thực hành trận vận động phục kích tại xã Điện Thái, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch, bắt sống 9 tên, giữ vững vùng ta mới mở ra, buộc địch phải co lại.
Tuy vậy, đường 100 là con đường có vị trí khá đặc biệt dẫn tới phía nam An Hòa - Đức Dục, lên Ái Nghĩa, Thượng Đức nên chúng không thể bỏ trống nơi này. Địch điều Trung đoàn 54, Sư đoàn 1 từ Trị Thiên về tăng cường cho An Hòa - Đức Dục, trước mắt chúng tập trung giải tỏa trục đường 100.
Hoạt động của ta đã buộc địch phải phân tán đối phó cùng một lúc ở nhiều nơi, không thể tập trung lực lượng thực hiện ý đồ tái chiếm Nông Sơn - Trung Phước.
--------------------
Bài 2 : Giằng co ở Thượng Đức