Hồ sơ - Tư liệu

Trở lại căn cứ lõm Bàu Bính

ĐẶNG TRƯƠNG 18/03/2025 07:33

Trong tác phẩm “Dặm trường gian truân” gồm những bút ký viết về mảnh đất huyện Thăng Bình trong chiến tranh xuất bản năm 2014, nhà văn Hồ Duy Lệ - người từng một thời làm báo ở chiến trường Quảng Nam - Quảng Đà đã giành cho căn cứ lõm Bàu Bính (xã Bình Dương, Thăng Bình) những cảm xúc rất đặc biệt.

Nha van HDL tro lai Bau Binh
Nhà văn Hồ Duy Lệ bên bia di tích căn cứ lõm Bàu Bính. Ảnh: NGỌC KẾT

Ông gọi Bàu Bính là “căn cứ không có rào vi”. Một căn cứ như thế, nếu không được che chở, bảo bọc giữa lòng dân trung kiên cách mạng thì làm sao có thể tồn tại được?

1. Giữa những ngày tháng ba lịch sử, tôi theo chân nhà văn Hồ Duy Lệ về vùng cát Bình Dương để thăm lại căn cứ lõm Bàu Bính.

Đón chúng tôi trong căn nhà khang trang vừa được xây lại từ nền căn nhà cũ hồi chiến tranh, anh Nguyễn Đình Trúc (con trai ông giáo Thế - một người mà ngay từ đầu chuyến đi, nhà văn Hồ Duy Lệ luôn nhắc đến với một tình cảm trân trọng hết mực) đã không giấu được xúc động khi kể chuyện về cụ thân sinh của mình.

Nhà ông giáo Thế, một gia đình khá giả mấy đời ở ngay trong lòng Bàu Bính. Nguyên gốc căn nhà này là nhà ngói ba gian, cột gỗ vững chắc từ thời ông nội ông giáo để lại. Bom đạn chiến tranh đã đánh sập ngôi nhà.

Lúc bấy giờ, một gia đình như thế có thể lựa chọn cách an toàn là rời làng ra đi tìm nơi khác sinh sống. Nhưng, là một người cảm tình đặc biệt với cách mạng, ông giáo Thế đã quyết định ở lại và biến nơi đây trở thành cơ sở che giấu cán bộ và các lực lượng trụ bám căn cứ Bàu Bính.

Tận dụng gạch đá và gỗ của căn nhà bị bom đánh sập, ông giáo Thế và du kích Bình Dương đã đào một căn hầm kiên cố làm trụ sở chỉ huy cho cả vùng căn cứ.

Dấu tích căn hầm này giờ đã bị thời gian xóa nhòa, nhưng theo anh Nguyễn Đình Trúc, từ chỗ cây xoài áng ngữ nơi miệng hầm, có thể phóng tầm mắt bao quát cả vùng căn cứ lõm Bàu Bính nằm trên địa bàn thôn 4 và một phần thôn 5 xã Bình Dương.

Ngày trước, địa hình khu vực này chủ yếu là các gò, thổ cao, cây cối thưa thớt; xen lẫn là các bàu nước với tổng diện tích chỉ khoảng 2km2. Phía Bắc giáp các xã Duy Hải, Duy Nghĩa của huyện Duy Xuyên, phía Tây là sông Trường Giang có phòng tuyến bố trí nhiều bãi mìn, phía Đông giáp biển và phía Nam là miên man cát trắng...

Nhà văn Hồ Duy Lệ cho biết, gia đình ông giáo Thế là một trong những “hạt nhân” với tinh thần trụ bám kiên cường ở mảnh đất Bình Dương anh hùng này.

Qua lời nhà văn, tôi hình dung, trong những năm chiến tranh ác liệt ấy, vai trò của quần chúng cảm tình với cách mạng là vô cùng quan trọng. Không có họ, có lẽ, một Bàu Bính sẽ khó bề tồn tại ở một nơi chỉ trơ trọi cát và cát giữa ba bên bốn bề đồn bót.

2. Chuyến trở lại Bàu Bính lần này, chúng tôi còn được gặp ông Tám Trá, tức Ngô Văn Trá - phụ trách Đội phẫu thuật vùng đông, là người mạnh dạn, sáng tạo mổ hàng trăm ca cho cán bộ hoạt động cách mạng giữa bom đạn mà không có ca nào nhiễm trùng. Bỏ dao kéo là ông Trá cầm súng trực tiếp chiến đấu.

Ông Trá chia sẻ rằng con sông Trường Giang đoạn qua Bình Dương có vai trò rất quan trọng đối với mỗi người dân, cán bộ, du kích từng một thời bám trụ căn cứ lõm Bàu Bính. Mọi liên lạc, lương thực, thực phẩm, thuốc men, lực lượng... muốn đến được Bàu Bính đều phải đi qua đoạn sông này.

Trường Giang trở thành cầu nối an toàn từ căn cứ qua Xuyên Tân rồi đi các vùng căn cứ khác. Địch không thể nào kiểm soát được tình hình bởi lúc bấy giờ Bàu Bính đã hình thành nên thế trận rất kỳ lạ: có Bàu Bính tại chỗ, Bàu Bính trong lòng địch và Bàu Bính ở các nơi khác... làm hậu phương vững chắc cho lực lượng bám trụ.

Bây giờ, nhìn từ trên cao Bàu Bính đã trải một màu xanh miên man trên cát. Người ta không còn phân biệt được đâu là “cây dương thần” từng một thời là biểu tượng về sức sống mãnh liệt của căn cứ lõm Bàu Bính.

Ngày ấy, từ các vùng căn cứ, người ta nhìn về Bình Dương là nhìn “cây dương thần”, “cây dương thần” còn thì Bàu Bính còn, Bình Dương và vùng Đông còn trụ vững. “Cây dương thần” vẫn còn đó, và giờ đây lại tiếp tục làm nhân chứng cho cuộc đổi thay ở vùng đất cát này.

Con đường bê tông rộng lớn bọc từ Bàu Bính, chạy quanh Bình Dương qua Duy Hải như một sợi dây huyết mạch của sự thông thương. Chúng tôi bắt gặp đàn dê thong thả gặm cỏ trên đồi, cạnh “cây dương thần”, bắt gặp cảnh công nhân Bình Dương tan ca từ các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng trên vùng cát, tạo nên một diện mạo khác cho vùng đất Bình Dương.

3. Chiến tranh đã đi qua tròn 50 năm, nhưng những vết thương trong lòng của những người con xứ cát Bình Dương thì vẫn mãi còn đó. Nỗi đau ấy đã kết tinh thành tình yêu vô hạn với mảnh đất quê nhà.

Đi trên mảnh đất Bình Dương trong nắng gió của thanh bình, trong miên man những câu hát dạt dào yêu thương trong bài “Sắc xanh vườn mẹ” của nhạc sĩ Minh Đức (phổ thơ Phan Đức Nhạn), chúng tôi càng thấm thía hơn những mất mát, hy sinh to lớn của biết bao người mẹ cho đất đai quê xứ nở hoa.

Bình Dương ơi, có thể nào quên/ Những tháng năm đạn xới bom rền/ Mẹ ngược xuôi hai mùa mưa nắng/ Đôi chân trần bỏng rát cát quê hương / Hạt giống mẹ gieo nay thành hạt ngọc/ Đã bao ngày con vẫn đợi mẹ ơi”…

Bàu Bính hôm nay đang ngời lên một sức sống mới từ những cần cù, chịu thương chịu khó của bao lớp người sinh ra, thử thách và trưởng thành trên mảnh đất này.

Chúng tôi gặp anh Nguyễn Văn Đức, người thoát chết trên đôi tay lạnh ngắt của mẹ trong một căn hầm giữa lòng Bàu Bính khi địch mở trận càn cuối cùng. Anh Đức giờ lại tiếp tục gieo mầm xanh trên đất cát quê hương mình mặc cho ký ức đau thương vẫn trở đi trở lại trong từng giấc mơ.

Bàu Bính, một bài ca bất diệt về lòng dân trong chiến tranh cách mạng. Và Bàu Bính, một biểu tượng sáng ngời về tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của bao lớp người.

ĐẶNG TRƯƠNG