Xứ Quảng nhiều vàng
Gần 600 năm lịch sử, Quảng Nam được biết đến là vùng đất giàu tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là vàng.

Từ xưa, vàng ở Quảng Nam đã gắn bó mật thiết với lịch sử khai thác, giao thương và phát triển kinh tế. Những mỏ vàng nổi tiếng như Bồng Miêu, Trà My không chỉ là nguồn tài nguyên quý giá, mà là cả chứng nhân cho biết bao biến cố lịch sử và dấu ấn của triều đại phong kiến Việt Nam.
Từ trong thư tịch
Không chỉ có mỏ vàng Bồng Miêu, rải rác khắp tỉnh Quảng Nam đều có vàng. Trong tác phẩm “Phủ biên tạp lục”của tác giả Lê Quý Đôn có ghi rằng: “Xứ Quảng Nam có nhiều núi sản xuất vàng”.
Mộc bản sách “Đại Nam nhất thống chí”, quyển 5, mặt khắc 64 ghi chép về vàng ở tỉnh Quảng Nam như sau: “Vàng sản xuất ở vùng núi huyện Hà Đông, có thuế. Hằng năm mỗi người nộp 3 tiền (tức 3 đồng cân) 3 phân, người già yếu nộp 1 nửa.
Sách “Hán Thư” chép: “Huyện Lư Dung có bến lượm vàng”. Sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn chép: “Các núi ở phủ Thăng Bình đều có vàng. Đạo Trà Tế ở núi có nhiều vàng, đạo Trà Nô ở sông có nhiều vàng”.
Vàng nhiều ở núi Trà Tế, sông Trà Nô được mộc bản sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi lại rằng: “Núi Trà Tế ở cực giới phía Tây huyện Quế Sơn. Có sông Trinh chảy qua phía Đông. Trên núi có suối chảy xuống sông ấy. Núi có vàng, trụ sở đạo Trà Tế đóng ở đấy”.

Sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn ghi: “các núi Trà Nô, Trà Tế năm xưa kim khí (vàng) rất vượng, thường có một đường đi từ trong đất đi xiên ra, khí vàng bốc nổi lên trên (...) Núi nào có vàng thì đất mềm, không thì đất cứng, chủ hộ đãi vàng tìm ở đầu núi thấy có mạch vàng thì đào lấy đất có vàng ấy chất thành một đống, làm nhà che lên trên, rồi lấy nước đãi cho sạch đất.
Chỗ đất đào có khi sâu đến hơn ngàn thước, đãi lọc trong một ngày thường được một nghé vàng vụn, đem nạp cho sở nấu vàng… Quan Ngoại tả Trương Phúc Loan chiếm nguồn này làm đất ăn lộc, thu được vàng không biết bao nhiêu mà kể”.
Không chỉ nhiều về số lượng, chất lượng vàng ở tỉnh Quảng Nam được đánh giá là khá tốt.
Khai thác vàng ở xứ Quảng
Việc khai thác vàng ở Quảng Nam diễn ra từ rất lâu đời nhưng thực sự được ghi nhận rõ ràng dưới thời các chúa và vua Nguyễn.

Từ thế kỷ 17, khi Đàng Trong phát triển mạnh mẽ, các thương nhân nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản đã đến buôn bán và khai thác vàng ở vùng đất Quảng Nam.
Sớm nhận ra giá trị của các mỏ vàng ở Quảng Nam, các chúa Nguyễn đã cho thành lập các “liêm hộ” (hay còn gọi là kim hộ) - (hộ đãi vàng) để chuyên làm công việc đãi vàng.
Mộc bản sách “Đại Nam thực lục tiền biên”, quyển 2 ghi về việc khai thác vàng ở Quảng Nam vào năm Đinh Tỵ (1617): “Ở xứ Thuận Hóa, nguồn Phù Ẩu và núi đất ở xã Nam Phố Hạ huyện Phú Vang, là đất có vàng, hằng năm sai dân lấy để nộp. Những núi ở Quảng Nam càng sẵn nhiều vàng. Các hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, người trong hộ mỗi năm nộp 3 hay 2 đồng cân vàng sống”.
Dưới thời chúa Nguyễn, Quyền thần Trương Phúc Loan đã thu được mối lợi rất nhiều từ việc khai thác vàng ở tỉnh Quảng Nam: “Thăng Trương Phúc Loan làm quốc phó, giữ việc Bộ Hộ, quản cơ Trung tượng, kiêm Tàu vụ, cho thu thuế sản vật nguồn vàng Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân làm ngụ lộc. Loan sai người riêng trưng thu, Hằng năm được số vàng vô số mà nộp thuế cho nhà nước chỉ 1 -2 phần 10”.
Đến thời các vua Nguyễn, khai thác vàng ở tỉnh Quảng Nam được đẩy mạnh và phát triển. Năm Canh Ngọ (1809), vua Gia Long xuống dụ: “Nay căn cứ vào tập trình bày ở Quảng Nam, nơi người thiểu số ở địa phận rừng núi, nguồn Chiên Đàn, có chỗ sản sinh ra vàng, nên cho khai đào và đem vàng vụn hiện kiếm được dâng lên”.
Đối với liêm hộ khai thác vàng ở tỉnh Quảng Nam, các đời vua cũng cho quy định nộp thuế.
Thiệu Trị năm thứ 5, chuẩn y lời bàn cho những hộ làm vàng tỉnh Quảng Nam từ nay về sau hàng năm thuế vàng định bằng vàng 8,5 tuổi.
.jpg)
Tự Đức năm thứ 3, chuẩn y lời bàn: những hộ làm vàng nộp thuế sản vật ở tỉnh Quảng Nam liệu giảm cho 5 phân, cả năm về hạng tráng mỗi người lệ nộp thuế vàng 2 tiền, 8 phân, dân đinh già cả, tàn tật chịu một nửa”.
Dưới thời Pháp thuộc, sau khi hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam, Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa để thu lợi cho chính quốc. Vốn là mảnh đất trù phú nên Pháp rất chú trọng đến tỉnh Quảng Nam.
Nhiều cuộc thám sát và thăm dò khoáng sản đã được thực hiện tại đây. Năm 1910, Pháp cho khảo sát khoáng sản với bản đồ “Lucette” do Edouard Brizard đề xuất. Họ đưa công nghệ hiện đại và thuê nhân công khai thác các mỏ vàng lớn như Bồng Miêu, Phước Sơn. Nhờ đó, sản lượng vàng rất cao, tuy nhiên người Việt lại ít được hưởng lợi.
Năm 1920, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung tâu lên vua Khải Định rằng: “Mỏ vàng ở Bồng Miêu Quảng Nam thu lợi gấp nhiều lần, nhưng người nước ta chỉ biết xúc cát đãi lấy vàng mà không biết nấu quặng lấy vàng, vì thế khoáng sản phần nhiều do người nước ngoài độc chiếm mối lợi”.
Trải nhiều biến động của lịch sử, đến nay một số mỏ vàng ở Quảng Nam như Bồng Miêu (huyện Phú Ninh) và Phước Thành (huyện Phước Sơn) đã đóng cửa, chấm dứt hoạt động khai thác.
Tuy vậy, tình trạng khai thác vàng trái phép vẫn diễn ra phức tạp, gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường và đe dọa an ninh trật tự tại địa phương. Trước thực trạng này, chính quyền tỉnh đã đẩy mạnh công tác kiểm tra, truy quét, xử lý nghiêm các vi phạm, đồng thời tăng cường tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao ý thức cho người dân.