Vốn quý tri thức dân gian
Nhân chuyện tri thức dân gian về sâm Ngọc Linh vừa được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, lại gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về việc phát huy vốn quý mà cha ông để lại.
Thực tiễn đời sống của các cộng đồng ít nhiều đều tích lũy kinh nghiệm, tư duy, phong tục, tập quán ứng xử với tự nhiên và xã hội… truyền từ đời này sang đời khác. Những giá trị đó được gọi chung là tri thức dân gian, hoặc là tri thức bản địa.
Định nghĩa được nhà nghiên cứu Hà Hữu Ngà đưa ra là “tri thức bản địa bao gồm các loại trí khôn, kinh nghiệm, phong tục, lề thói ứng xử, các bài học của một cộng đồng. Tri thức bản địa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ người này qua người khác, thông qua truyện kể, huyền thoại, văn học dân gian, các nghi lễ, lễ thức, tập quán, lề thói, quy định, luật tục, v.v…”.
Nếu hiểu như vậy thì khảo sát tri thức dân gian về sâm Ngọc Linh chẳng hạn, sẽ không chỉ là kinh nghiệm về gìn giữ, trồng và khai thác loại cây này, mà còn cả một hệ thống giá trị di sản văn hóa của đồng bào được tạo dựng qua bao đời người xung quanh vùng sâm, có thể bắt đầu từ nguyên sơ gắn liền với huyền thoại, giai thoại về “cây thuốc giấu” xa xưa, hay là thứ “thần dược” của thần núi ban tặng. Điều kỳ diệu là sự lan tỏa giá trị cây sâm đã mang lại những đổi đời trên vùng đất vốn khó nghèo như Nam Trà My (Quảng Nam) và phía Tu Mơ Rông và Đăk Glei (Kon Tum).
Các tỷ phú sâm xuất hiện ngày càng nhiều, theo bước đi nhân giống sâm cả vùng Ngọc Linh. Riêng Tu Mơ Rông và Đăk Glei đã có tới hơn 3.000 ha sâm được doanh nghiệp và người dân gìn giữ, nuôi trồng.
Còn phía Nam Trà My thì ít diện tích hơn, nhưng nhờ những năm gần đây có lễ hội sâm đã thu hút sự quan tâm của cả nước, nay thì lan tỏa ra tầm quốc tế với lễ hội sắp tới đây. Sâm đã là “quốc bảo” thì tri thức dân gian về loài dược liệu quý này quá xứng đáng là di sản phi vật thể quốc gia.
Quảng Nam không chỉ có sâm mà còn có tri thức dân gian về nhiều loài cây quý nữa, chẳng hạn là quế Trà My, tiêu Tiên Phước, hay như loài cây quý phương Nam được vua nhà Nguyễn vinh danh là Nam trân (lòn bon)… Nếu chịu khó sưu tầm, hệ thống hóa dữ liệu tri thức bản địa về các loài cây ấy, cũng đem lại giá trị không hề nhỏ để khai thác cho cả kinh tế và văn hóa.
Quảng Nam cũng không chỉ có cây trái mà còn cả kho tàng tri thức dân gian về nhiều lĩnh vực đời sống khác nữa chưa được khảo sát đầy đủ. Thấy rõ nhất là tri thức dân gian của “đất trăm nghề”, nay chỉ mới được khảo tả, sưu tra tư liệu một số nghề thôi, như nghề đúc đồng, dệt chiếu, dệt thổ cẩm, nghề mộc, nghề đan lát…
Còn biết bao nghề khác cũng ẩn chứa nhiều tri thức dân gian, là vốn văn hóa thẳm sâu truyền đời, nhưng chưa được đầu tư đúng mức để xây dựng hệ thống đầy đủ dữ liệu di sản.
Có thể kể một việc rất hay mà Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An đã làm nhiều năm qua là tìm hiểu được tri thức dân gian của nghề gốm Thanh Hà, trong đó gồm 7 quy trình chế tác của 8 nhóm sản phẩm thuộc gốm, gạch, ngói và tượng ông táo.
Nếu nghiên cứu kỹ tư liệu về làng gốm Thanh Hà có thể chỉ ra việc làng này đến nay vẫn tồn tại và bảo lưu những kỹ thuật sản xuất truyền thống là điều không phải làng gốm nào cũng duy trì được trước sức ép của khoa học công nghệ. Đã có nhà nghiên cứu phát biểu rằng đối với lịch sử nghề gốm Việt Nam, hiện tượng làng gốm Thanh Hà trở thành nguồn tư liệu quý để tìm hiểu kỹ thuật sản xuất gốm truyền thống, không chỉ ở Việt Nam mà còn cả Đông Nam Á.
Bụi thời gian đang phủ mờ dần, đời sống tân tiến thì cứ kéo người ta lao về phía trước, thêm những xáo trộn khi sáp nhập, giải thể... sẽ khó chuyên chú công tác bảo tồn, phát huy vốn quý di sản mà cha ông để lại, đó là câu chuyện cần lưu tâm không chỉ ở hiện tại mà còn tương lai.