Chất lượng nước dưới đất khi đô thị hóa
Một dòng chảy âm thầm đang chịu áp lực nặng nề từ những chuyển động trên mặt đất: đô thị hóa, phát triển công nghiệp - nông nghiệp, biến đổi khí hậu và sự thiếu hụt quy hoạch tài nguyên nước. Chất lượng nước dưới đất là vấn đề đặt ra khi tốc độ đô thị hóa đang tăng nhanh.

Chất lượng nước ngầm
Mạng lưới quan trắc chất lượng nước ngầm trên địa bàn Quảng Nam tại 15 điểm ở hầu khắp địa phương, trong đó có 7 điểm vùng ven biển và 8 điểm tại các đô thị hoặc ven đô. Kết quả quan trắc từ năm 2011 - 2020 được nhận định, chất lượng nước ngầm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn tương đối tốt.
Tuy nhiên, tại hầu hết điểm quan trắc, chất lượng nước dưới đất chủ yếu bị nhiễm khuẩn coliform, amoni do ảnh hưởng bởi nguồn thải từ sinh hoạt và chăn nuôi chưa được kiểm soát và mức độ ô nhiễm giai đoạn 2016 – 2020 có xu hướng tăng so với giai đoạn 2011 – 2020.
Cụ thể: Coliform khu vực Điện Hồng, Đại Cường, Cẩm An, Nam Phước có giá trị cao nhất (vượt quy chuẩn 80-87 lần); Amoni khu vực Đại Cường, Duy Hải, An Sơn, Núi Thành có giá trị cao hơn (vượt quy chuẩn 2,5-7,5 lần). Ngoài ra, do bị ảnh hưởng của cấu tạo địa chất vùng khiến một số khu vực (Nam Phước, Duy Hải) có hàm lượng Fe, Mn vượt giới hạn cho phép.
Nhận định từ các chuyên gia khi đánh giá môi trường chiến lược của Quảng Nam cho biết, trong tương lai, dưới sức ép của dân số tăng, phát triển kinh tế, cùng những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, tài nguyên nước dưới đất tỉnh Quảng Nam sẽ phải đối mặt với những mối đe dọa suy thoái, vì vậy đòi hỏi cần phải tăng cường công tác quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên nước dưới đất, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trong khi đó, theo các báo cáo từ Cục Quản lý tài nguyên nước, vùng đồng bằng và ven biển Quảng Nam sở hữu tầng chứa nước có lưu lượng khai thác ổn định, đặc biệt ở các khu vực như Thăng Bình, Tam Kỳ, Núi Thành, Điện Bàn. Tuy nhiên, qua khảo sát 426 mẫu nước ngầm trong giai đoạn 2011-2018, phát hiện một số chỉ số ô nhiễm như ammonium (NH4+‑N), nitrate, TDS (tổng chất rắn hoà tan) có xu hướng tăng.
Đặc biệt, các khu vực gần bãi chôn lấp rác, nhà máy chế biến thủy sản và cụm công nghiệp nhỏ bị ghi nhận có hiện tượng thấm lọc nước thải vào tầng ngậm nước. Ở vùng ven biển, xâm nhập mặn gây thay đổi hàm lượng ion trong nước dưới đất, khiến một số giếng không còn dùng được cho sinh hoạt mà chỉ để tưới tiêu.
Tác động từ đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa không đi kèm với quy hoạch thoát nước và xử lý chất thải đạt chuẩn chính là “kẻ đồng lõa” làm suy giảm chất lượng tầng ngậm nước. Đáng lo là đa số hộ dân vùng ven và nông thôn vẫn phụ thuộc vào nước giếng khoan mà không qua xử lý, dẫn đến rủi ro tích tụ ô nhiễm sinh học và kim loại nặng trong dài hạn.
Quảng Nam đang bước vào giai đoạn đô thị hóa mạnh mẽ, đặc biệt tại Tam Kỳ, Điện Bàn, Núi Thành. Sự gia tăng mật độ dân cư, nhu cầu cấp nước và mở rộng hạ tầng kỹ thuật khiến áp lực khai thác nước ngầm tăng cao. Cùng lúc, các bề mặt thấm tự nhiên (ruộng, đầm, vùng rừng thưa) bị bê tông hóa, làm giảm khả năng bổ cập tự nhiên cho tầng ngậm nước.
Trong khi đó, hệ thống thoát nước đô thị chưa được tách riêng mưa và nước thải, dễ gây hiện tượng thấm ngược vào mạch nước ngầm. Việc thiếu các vùng đệm sinh thái như rừng ngập mặn, vùng sậy, hồ điều hòa… khiến khả năng làm sạch tự nhiên của hệ sinh thái suy giảm rõ rệt.
Luật Tài nguyên nước sửa đổi năm 2023 có hiệu lực từ tháng 7/2024 yêu cầu các địa phương khoanh vùng cấm/hạn chế khai thác nước dưới đất, quản lý bằng cơ sở dữ liệu số, lập hồ sơ khai thác chi tiết cho từng công trình. Tuy nhiên, để từ chính sách đến hành động vẫn là một hành trình dài.
Thách thức lớn nhất hiện nay chính là thiếu nhân lực chuyên môn, ngân sách đầu tư cho mạng lưới quan trắc còn hạn chế. Chưa kể cơ sở dữ liệu về tầng chứa nước chưa đầy đủ, đặc biệt ở khu vực miền núi, nơi khai thác nước giếng khoan ngày càng phổ biến. Việc thiếu dữ liệu và cơ sở kỹ thuật cũng là khoảng trống trong câu chuyện quản lý tài nguyên nước.
Tam Kỳ và Điện Bàn đang thử nghiệm hệ thống thu hồi nước mưa, xử lý nước thải tại nguồn để tái sử dụng cho tưới xanh và làm mát đô thị. Các khu vực tái thiết đô thị mới (như dọc sông Tam Kỳ) cũng đề xuất bổ sung “vành đai xanh” đóng vai trò là vùng lọc sinh học, bảo vệ mạch nước ngầm.
Giải pháp bảo vệ nguồn nước dưới đất được đưa ra, đó là khoanh khu khai thác, sử dụng và tái tạo sử dụng nguồn nước ngầm cho các mục đích khác nhau (sản xuất công nghiệp, thương mại du lịch, sinh hoạt...). Cạnh đó, nâng cao nhận thức người dân về bảo vệ chất lượng nguồn nước mặt, nhất là việc quản lý, sử dụng nguồn nước trong sản xuất và sinh hoạt hằng ngày cũng là cách để giữ chất lượng nguồn nước ngầm.