Hồ sơ - Tư liệu

Vào nghề, bước chân gập ghềnh…

HỒ DUY LỆ 18/06/2025 11:06

Sau chiến dịch Tết Mậu Thân - 1968, được thoát ra khỏi lao Thừa Phủ - Huế, về đến Quảng Đà, tôi được Ban Tổ chức Tỉnh ủy đưa về Báo Giải phóng Quảng Đà. Thủ trưởng Trần Văn Anh đón nhận chúng tôi bằng nụ cười hiền khô.

VAO NGHE BUOC CHAN GAP GHENH 1
Minh họa: HIỂN TRÍ

Những thước ký ức...

Ban Tuyên huấn Quảng Đà có các Tiểu ban: Huấn học, Tuyên truyền, Giáo dục, Trường Đảng, Đoàn văn công, Nhà in và Báo. Báo Giải phóng lúc bấy giờ chỉ có 5 người: Trần Văn Anh, dân Hòa Lương, Hòa Vang, tập kết về. Hoàng Kim Tùng, một nhà giáo cấp ba, người Đông Hà - Quảng Trị.

Hồ Hải Học, đang học Thông tấn ở Liên Xô thì Trung Quốc lên án Liên Xô “xét lại”, thế là tổ chức cho về Hà Nội, Hải Học xung phong vào chiến trường miền Nam. Hoài Hà, tập kết về, dân Quảng Ngãi. Và, Hữu Mười, còn gọi Mười Tùy, dân Điện Thọ, Điện Bàn.

Cơ quan Ban có lúc đóng ở trong xóm nhà ông Trùm Diễn, nhà bà Trùm Tính... ờ thôn Hai xã Xuyên Khương. Có lúc ở nhà chị Bảy ở thôn Thanh Châu, xã Xuyên Thanh, có lúc ở nhà ông Đen, gần cầu Ông Nở, xã Đại Thắng - Tất cả là các trạm trung chuyển lên vùng núi Hòn Tàu - Đèo Le, và vùng núi Bàn Cờ, Lộc Sơn, Đại Lộc.

Lên núi, nhà in báo khoét cái hang sâu vào sườn núi làm nơi đặt máy in. Báo có căn hầm đào vào núi để tránh bom pháo và cái chòi lợp lá nón cạnh nhà in để treo võng nghỉ và đọc, viết.

Xung quanh khu vực Hòn Quắp từng đóng cơ quan Văn phòng Đặc khu ủy Quảng Đà, và có những cái hang làm nơi ở và làm việc của Bí thư Đặc khu ủy Hồ Nghinh, của Bí thư Đặc khu ủy Trần Thận (người thay Hồ Nghinh), của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Phạm Đức Nam.

Về cơ quan Báo, lúc đầu tôi chưa được viết tin, viết bài mà chủ yếu đi gùi cõng lương thực, thực phẩm, đào hầm, dựng trại, quơ củi - là thời gian tôi nghĩ không biết mình làm nhiệm vụ này bao lâu, nhưng vẫn vui vẻ làm, không chút băn khoăn.

Mấy tháng sau thì được kiêm giữ cái radio National 2 pin đại, hằng ngày ghi âm tin đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng.

Ngày nào cũng phải ngồi ghi tin, nhưng một tháng thì các anh mới chọn một số tin tổng hợp đưa lên báo. Không bị bom pháo, không phải di chuyển cơ quan thì báo ra mỗi tháng một kỳ, với số lượng trên dưới một nghìn tờ. Khi ra báo phục vụ cho một chiến dịch thì in nhiều hơn.

Cuối tháng 10 năm 1968, anh Trần Văn Anh phân công tôi đi công tác thị xã Hội An. Nói Hội An, nhưng cơ quan của Thị ủy đóng trong nhà dân ở Xuyên Thọ, Duy Xuyên, có lúc ở xã Bình Dương, Thăng Bình. Tôi theo đơn vị C2 về Cẩm Thanh sống với bộ đội, nói chuyện với du kích, cán bộ xã...

Hồi đó, đi một chuyến công tác ít nhất một tháng, có khi 2 tháng mới về lại cơ quan. Nhiều cán bộ của Ban Tuyên huấn Quảng Đà đi công tác rồi vợ con nhận bằng liệt sĩ như anh Hồ Hiến, anh Phan Quýt ở Tiểu ban Giáo dục, anh Trần Mậu Tý ở Tiểu ban Tuyên truyền.

Có lần, lúc đi công tác, cơ quan đóng ở Gò Nổi, lúc về, cơ quan ở trên Mặt Rạng - Hòn Tàu hoặc trên dốc Ông Thủ ở núi Đại Lộc. Đi và về đều phải bám theo giao liên.

Đến nơi, phải liên hệ với cán bộ xã để được bố trí chỗ ở, thường ở trong nhà dân, ăn với dân, không có dân thì ở với du kích để có cơm, nhất là có hầm bí mật để khi địch càn có chỗ rúc. Giới thiệu là phóng viên thì đến đâu cũng được tiếp nhận một cách vui vẻ.

Là phóng viên, nhưng xuống địa phương thì làm việc như một cán bộ Tuyên huấn. Các anh chị ở xã nghe giới thiệu “phóng viên nhà báo” thì rất quý, làm như phóng viên phải là người “văn hay, chữ tốt”, cho nên có họp hành, kể cả họp chi bộ cũng không quên mời anh phóng viên dự, dù phóng viên như tôi bấy giờ mới đối tượng Đoàn.

Cực nhất là mời anh phóng viên phát biểu ý kiến, sợ hơn là mời anh phóng viên nói chuyện thời sự trong nước và quốc tế, mời dự và nói chuyện trong các cuộc mít tinh gặp dân vùng yếu, còn gọi là vùng tranh chấp - vùng ban ngày có địch, ban đêm thì cán bộ du kích đột nhập gặp dân.

Không sờn, dẫu hy sinh

Phóng viên Đỗ Nhung sinh năm 1944, người Hòa Châu, Hòa Vang, bỏ học thoát ly lên chiến khu, hy sinh tháng 7 năm 1967. Phóng viên Nguyễn Trọng Định, sinh năm 1942, Gia Lâm, Hà Nội, nguyên là phóng viên Báo Nhân dân từ Hà Nội vào Khu 5 - tăng cường cho Báo Giải phóng Quảng Đà, hy sinh ngày 26 tháng 8 năm 1968, tại Điện Phước, Điện Bàn. Trịnh Xuân Hy, sinh năm 1940 quê Tam Thanh, Tam Kỳ, công tác Báo Giải phóng Quảng Đà, hy sinh năm 1973, tại Xuyên Châu, Duy Xuyên. Dương Tấn Nhường, sinh năm 1943, phường Bắc Mỹ An, Đà Nẵng, học sinh tập kết ra Bắc, về Nam tăng cường cho Báo Cờ Giải phóng Quảng Đà - chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân, Đặc khu ủy tăng cường thêm một tờ báo cho Đà Nẵng là Báo Cờ Giải phóng, hy sinh ngày 23 tháng 1 năm 1968, tại Điện Quang, Gò Nổi…

Một chiến trường khốc liệt vào loại “Nhất Củ Chi, nhì Gò Nổi” như thế nhưng giới báo chí, văn nghệ từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Khu 5, vẫn luôn có nhiều người xin đi thực tế Quảng Đà, Quảng Nam, như: Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Chu Cẩm Phong, Bùi Minh Quốc, Dương Thị Xuân Quý, Dương Đức Quảng, Võ Thế Ái, Nguyễn Khắc Phục, Thái Bá Lợi, Thanh Quế, Nguyễn Bá Thâm... Ngày 8 tháng 3 năm 1969, nhà văn Dương Thị Xuân Quý hy sinh, tại thôn Hai, Duy Thành. Ngày 1 tháng 5 năm 1971, nhà văn Chu Cẩm Phong hy sinh tại Vinh Cường, Duy Phú.

Giữa tháng 12 năm 1968, Gò Nổi bị cày trắng, cơ quan Báo Giải phóng Quảng Đà rời bãi bói, dời về thôn 1 xã Điện Thái, huyện Điện Bàn. Vừa đào được cái hầm chữ A chống phi pháo ở chưa đầy một tuần, thì 9 giờ sáng ngày 29 tháng 12 năm 1968, hai chiếc máy bay phản lực Mỹ ném hai loạt bom, một loạt trúng miệng hầm, anh Trần Văn Anh - Thủ trưởng của Báo Giải Phóng, vừa vọt lên chạy mươi mét thì trúng bom, hy sinh.

Anh Trần Văn Anh, sinh năm 1930, quê Hòa Khương, Hòa Vang. Lúc bấy giờ, anh Nguyễn Đình An là phóng viên của Báo Cờ Giải phóng Trung Trung Bộ, đang về công tác tại Quảng Đà.

Bí thư Đặc khu ủy Hồ Nghinh xin Bí thư Khu ủy 5 Năm Công cho anh Nguyễn Đình An ở lại Quảng Đà, thay vị trí anh Trần Văn Anh. Nguyễn Đình An quê Điện Quang, Gò Nổi. Anh Nguyễn Đình An phụ trách Báo Giải Phóng Quảng Đà đến ngày hòa bình, tháng 3 năm 1975.

Tháng 12 năm 1971, Hội nghị Đặc khu ủy Quảng Đà chuyển toàn bộ cơ quan từ khu A7 - ranh giới giữa huyện Đại Lộc và huyện Nam Giang, xuống Hòn Tàu, đóng ở núi đá Cù Hang.

Đầu năm 1972, Ban Tuyên huấn đóng trong 3 cái hang đá ở Mặt Rạng. Tại đây, sau khi Ban tổ chức sinh nhật Bác thì vào lúc 1 giờ sáng 21 tháng 5 năm 1972, bị một loạt bom B52, chết 10 người, bị thương 5 người, mãi đến năm 2012, đồng đội còn sót lại mới tìm được hài cốt anh em đưa về quê nhà.

Riêng hài cốt Bí thư Chi bộ báo, Hoàng Kim Tùng thì đưa về nhà vợ con anh tận thị xã Đông Hà - nơi anh chia tay vợ trẻ và con trai duy nhất Hoàng Anh Tuấn mới ba tuổi, ra Bắc rồi vào lại chiến trường từ năm 1965.

Những ngày giặc Mỹ leo thang chiến tranh, điều khó nhất không phải viết được bài báo hay, cái tin nóng, mà là có đủ can đảm, đủ sức chịu đựng gian khổ và ác liệt không. Một cuộc chiến tưởng chừng như không có ngày chấm dứt, mà sự sống chỉ có thể tính từng ngày, từ bom, pháo, sốt rét, đói triền miên và rất dễ lọt vào tay quân thù.

Xin cảm ơn những ngày gian khổ - những kỷ niệm - một thực tiễn quý giá - một nguồn tư liệu sống động ngủ im lìm trong ký ức, mỗi khi nhắc đến đồng đội, nhớ lại, hâm ấm lại những ngày làm báo, là nó thức dậy, cho tôi cảm xúc để có thể ghi lại đôi điều.

HỒ DUY LỆ