Mùa lúa trì trì nhớ cụ Huỳnh Thúc Kháng
Ngày 21/4/1947, ngôi làng Phú Bình (huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi) lung linh ánh đèn dưới những ngôi nhà tranh. Nhà giàu thắp đèn dầu phụng, nhà nghèo đốt trái mù u. Nhiều người thao thức để nghe câu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng...

Người ở làng, ai cũng nói nhờ cụ Huỳnh mà dân nghèo có đất để trồng lúa trì trì. Họa sĩ Phạm Cung đã họa một bức tranh khổ lớn để bộ đội rước đi trong đám tang.
Ký ức về cụ Huỳnh
Ông Nguyễn Trượng (SN 1936), ở khu dân cư Phú Bình Đông, thị trấn Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi như người bắt được vàng khi cầm trên tay tờ báo Tiếng Dân (bản photo).
Mắt ông Trượng vẫn tinh anh. Ông đọc phần tin ở Bắc Kỳ về việc quan Thống sứ có nghị định cấm tờ báo La Tribune in Indochine; tin ở tỉnh Quảng Nam có tựa đề “Ai là người bảo tồn, sinh mệnh và bênh vực quyền lợi cho người dân trong tỉnh”; tin về Quảng Ngãi phản ảnh các làng Vĩnh Yên, Mỹ Thuận, Du Quan phải qua 2 cửa, đi bộ rất xa lên huyện xin chữ ký sau đó đi bộ tiếp vào tỉnh để tới xin xác nhận của quan Công sứ (quan Pháp).
Nhà ông Trượng nằm trong vùng lõi từng được bảo vệ cẩn mật, vì có cụ Huỳnh Thúc Kháng và cán bộ trung ương làm việc. Ông Trượng đưa tôi trở lại ngôi nhà cụ Huỳnh từng làm việc và thắp hương, lầm rầm khấn vái.
Nhìn chiếc đèn dầu thời Pháp thuộc treo cạnh bàn thờ, ông Trượng kể, năm 1947, Nghĩa Hành được gọi là Thủ đô kháng chiến. Khu vực đặt Trụ sở Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ có 2 con đường nhỏ đi vào. Từ trục đường chính vào giữa xóm có một số ngôi nhà được dựng theo kiến trúc nhà rường làm bằng gỗ mít rất đẹp.
Khi ấy ông Trượng 11 tuổi. Cậu bé Trượng tò mò đi qua ngôi nhà cụ Huỳnh. Ngôi nhà này được lợp tranh, tường đất. Cậu nghe cha nói, cụ Huỳnh được bố trí ở tại nhà ba gian bằng gỗ rộng rãi của gia đình vì vậy cả nhà sẽ dọn đi sang nơi khác ở. Nhưng rồi cụ Huỳnh quyết định chọn ngôi nhà bà Võ Thị Tuyết ở gần đó.
Cậu Trượng vẫn nhớ như in, cụ Huỳnh có dáng đi rất nhanh, bước đi rắn rỏi trên con đường dày đặc lũy tre của làng, có lúc đi trên con đường cạnh đồng lúa. Cụ thường mặc bộ quần áo dân thường, có khi mặc bộ áo dài đen, đầu đội khăn, mang theo chiếc ô màu đen.
Vùng mật khu
Năm 1948, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và một phần của tỉnh Quảng Nam là vùng giải phóng (Liên khu 5). Lính Pháp mon men tìm cách xuyên thủng vùng giải phóng từ hướng đèo An Khê lấn xuống phía tây tỉnh Bình Định. Quân Pháp từ phía Đà Nẵng, vùng giáp ranh Phú Yên và Khánh Hòa, cho tàu tuần tiễu ngoài biển tấn công lên bờ.

Nằm giữa vòng vây đó, người dân từ già tới trẻ luôn nói 2 từ “cảnh giác”. Vùng giải phóng phải bỏ tiền Banque de IIndochine của Ngân hàng Đông Dương (Pháp) và các loại tiền Minh Mạng, sau đó lưu hành Tín Phiếu. Có những tờ báo ủng hộ chính quyền thực dân thời đó bị tiêu hủy và cấm lưu hành ở vùng giải phóng, ví dụ như tờ Tạp chí Đại Việt.
Gần ngôi nhà cụ Huỳnh làm việc là cánh đồng lúa trì trì, đây là loại lúa có thân cao, hạt gạo thơm và rất ngon. Cứ khoảng tháng 3 thì gieo cấy lúa trì trì. Nếu trồng 500 mét vuông thì thu chỉ được 60-70kg lúa khô. Nạn đói vẫn đe dọa triền miên, vì hạt gạo phải chia đôi, chia ba, chỉ ăn một phần, còn lại tiếp tế cho chiến trường, khi Việt Minh từ Hà Nội vào An Khê tấn công đồn Tú Thủy.
Cụ Trương Vui, sinh năm 1932, là người gốc Quảng Nam theo gia đình chạy vào vùng giải phóng sau năm 1945. Cụ kể, có một thời cụ ở ngay tại vùng lõi mật khu, gần nhà cụ Huỳnh.
Người dân lúc đó luôn mặc đồ đen để dễ ẩn mình dưới những lũy tre, đề phòng máy bay của Pháp từ Đà Nẵng bay vào ném bom. Nhiều khu chợ chỉ tập trung người và sáng đèn vào lúc ban đêm. Cuộc sống khá yên bình, nhưng thỉnh thoảng vẫn có tin đồn giặc Pháp từ biển tấn công vào bờ biển xã Đức Lợi, Phổ Thạnh, nhưng sau đó lại rút đi.
Ngày buồn Nghĩa Hành
Mùa xuân năm 1947, người nông dân ở Phú Bình có thêm niềm vui vì gặt hái được mùa trì trì, đêm về râm ran kể chuyện Việt Minh đang đánh Pháp ở An Khê.

Nhưng đó lại là một năm buồn, vì sau đó ít lâu thì cụ Huỳnh từ trần, để lại bao nỗi tiếc thương cho người dân làng. Những ngày cụ Huỳnh qua đời, nhiều ngôi nhà ở thôn Phú Bình sáng ánh đèn dầu phụng.
Ngày thường, mỗi gia đình chỉ đốt 3 quả mù u xỏ xâu để thay đèn, ăn cơm tối, nhưng đêm đó thì gia đình cậu Trượng và nhiều người thức trắng nói về một con người như tiên ông, đã cùng cụ Hồ mang lại cho người dân tận khổ những miếng đất để cày ải.
Ông Nguyễn Thứ, cha của cậu Trượng lúc đó là một cán bộ cơ sở trong làng Phú Bình. Ông cho gia đình biết tin buồn, sau đó hối hả đạp chiếc xe đạp Peugeot lên nhà bà Hương Thừa nằm gần sông Phước Giang thuộc thôn Đông Trúc Lâm, xã Hành Nhân cách thôn Phú Bình khoảng 3km để mượn bộ ván hòm.
Gia đình bà Hương Thừa là phú nông, có nhiều ruộng đất, nhà rường, trong kho chứa nhiều thóc gạo để tiếp tế cho Việt Minh. Bà Hương Thừa vội sai con lấy ra 4 tấm ván màu đỏ, vân gỗ láng và mịn, gỗ có hương thơm nhẹ. Số ván này cưa ra đủ để đóng 2 miếng thành, miếng hông, 2 miếng xuyên thổ, nắp quan tài.
Sau này cậu Nguyễn Trượng được cha kể lại, trong lễ khâm niệm đó, ông Phạm Văn Đồng (sau này là Thủ tướng) ngồi ở đầu quan tài. Những người trực tiếp khâm niệm cho cụ Huỳnh gồm có ông Nguyễn Sum, Nguyễn Mông, Nguyễn Thứ và một số người già trong làng.
Các cụ già dùng vải trắng quấn quanh người cụ Huỳnh, mỗi khi quấn giáp một vòng thì ông Phạm Văn Đồng dùng mực đỏ đánh dấu hướng mặt để khi đặt vào quan tài cho đúng chiều mặt và ở hướng thiên. Khi quấn vải thì các cụ đo theo quan tài, những chỗ thấp thì lót vải thành hộp vuông, khi đặt vào quan tài là vừa khít chứ không cần lót, bàn thờ đặt những bát cơm nấu từ gạo lúa trì trì rất thơm.
Từ sáng sớm vào ngày đưa tiễn cụ Huỳnh, cậu bé Trượng được mẹ gọi dậy sớm. Các em học sinh đứng thành một vòng tròn quanh quan tài, vòng ngoài là lực lượng quân đội, rồi đến người dân địa phương đến tiễn biệt cụ.
Các em học sinh tiễn đưa tang lễ đến cầu Bến Đá thì quay về. Quan tài cụ Huỳnh Thúc Kháng được đưa lên mai táng trên đỉnh núi Thiên Ấn, là mỏm núi, nơi là đệ nhất thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi.