Mười năm qua những tên làng
Tôi thành cộng tác viên thường xuyên cho chuyên mục “Đất và người xứ Quảng” trên ấn phẩm Quảng Nam cuối tuần của Báo Quảng Nam từ năm 2016.

Từ bấy đến nay, đã soạn được gần 100 bài giới thiệu “làng xã xưa qua tư liệu cổ” ký bút danh Phú Bình được tòa soạn chuyển đến độc giả - trong đó, ghi lại một số dấu tích của một số làng xã xưa ở vùng nam Quảng Nam chưa được nhiều người biết đến.
Nhặt “vàng” từ những cuộc điền dã
Ở phạm vi hai bên bờ con sông Bến Ván thuộc vùng cực nam của tỉnh Quảng Nam xưa, tôi đã đi qua các làng Bình An Trung, Vân Trai, Tịch An Tây, Thọ Khương, Diêm Điền, An Hòa. Từ đó nêu một số nét chấm phá về các di tích và danh thắng Ao Vuông, đầm An Hòa, trạm Nam Vân, mộ võ tướng Trần Đăng Long và đặc biệt là bến đò An Tân gần quãng sông Diêm Điền - nơi hy sinh của một nghĩa sĩ chống Pháp vào năm 1913 (cụ Trần Xán - người ấp Hương Trà, xã Tam Kỳ).
Tôi đã đi qua hai bên dòng sông Tiên Quả - nơi có cầu ông Bộ bắc qua để tìm hiểu bộ địa bạ lập năm 1807 của làng Sung Mỹ ven bờ nam; rồi qua bờ bắc để giới thiệu chợ Diêm Phổ (chợ Cây Trâm). Cũng ở vùng này, tôi tiếp cận được nhiều tư liệu xưa và phát hiện được bốn bài thơ khắc trên vách gỗ có bút tích của nhà thơ Hà Đình Nguyễn Thuật - một thi nhân Quảng Nam tài hoa vào thời Nguyễn.
Đến phía nam dòng sông Bầu Bầu, tôi tìm hiểu các di tích ở làng Đức Bố - nơi có mỏ đồng nổi tiếng thời Nguyễn. Qua phía bắc dòng sông có mộ đô đốc Đống Công Trường (thời Tây Sơn) ở làng Thạch Kiều, tìm dấu vết cây cầu đá Chăm nổi tiếng trong câu thơ “Thạch Kiều cầu đá hãy còn đây” của bà Tạ Quang Diệm (mẹ giáo sư Tạ Quang Bửu).
Rồi đến làng Bích Ngô kế đó, tôi phát hiện một bài thơ trên bia mộ rất hay về sự tích mở đất của cư dân Tam Kỳ vào từ đất Bắc “Kể từ lưu đáo Quảng Nam dinh…”. Đồng thời để biết được tên làng Bích Ngô được dịch từ tên “Cây Vông” và tên làng Bồng Miêu có xuất xứ từ tên “Cây Bồng” và chép lại nhiều huyền thoại có liên quan đến việc khai thác vàng ở hai địa phương này.
Sông Tam Kỳ là một dòng nhỏ chảy đến cuối ấp Hương Trà làng Tam Kỳ và ấp Phú Bình làng Phú Hưng rẽ qua hai nhánh nam bắc để thành ngã ba sông Tam Kỳ nổi tiếng. Ven bờ nam có mộ bốn ông tiền hiền Nguyễn, Trần, Lê, Đỗ đều được táng trên xứ đất có các tên Trà Bé, Ba Lay, Trà Phê sát cạnh Bàu Dũ - một di chỉ khảo cổ nổi tiếng sau này. Cạnh đó, có làng Tịch An Đông - một làng đóng thuyền nổi tiếng thời Nguyễn - hiện còn lưu bộ tư liệu chữ Nho phong phú về lịch sử làng trải dài từ thời Gia Long đến gần hết triều Nguyễn.
Kể câu chuyện quê xứ
Men theo hai dòng chảy gần như song song là Trường Giang và Bàn Thạch - Quảng Phú, tôi đến khảo sát các di tích cổ ở các làng Phú Quý Hạ, Hòa Thanh, Tỉnh Thủy, Phú Quý Thượng, Quảng Phú, Kim Đới, Phú Thạnh… Qua đó đã phát hiện nhiều di tích, tư liệu chữ Hán rất đáng chú ý - đặc biệt là một văn bản từ đầu thế kỷ 17 kể về những sự kiện đầu tiên khi cư dân từ Thanh Hóa vào vùng Đông Tam Kỳ dựng nghiệp. Cũng ở vùng ven biển này, tôi phát hiện nhiều tư liệu về các võ quan thủy binh triều Nguyễn đã có đóng góp trong việc bảo vệ bờ biển từ Quảng Bình vào đến cửa biển An Hòa, Quảng Nam.
Từ đầm Chiên Đàn xưa (nay là Bãi Sậy - Sông Đầm), tôi ngược lên các làng An Hà, Bàn Thạch, Dưỡng An, Tam Kỳ, Mỹ Thạch, Phương Hòa, Chiên Đàn, Tú Tràng… Qua di tích và tư liệu trên thực địa, được biết vùng này là trung tâm hành chính của huyện Hà Đông xưa. Đồng thời phát hiện một bộ gia phả quan trọng của tộc Ung ghi tên vị thủy tổ của tộc là Xá La Cây cách các hậu duệ tộc Ung hiện nay (đầu thế kỷ 21) đến 21, 22 đời.
Từ trung tâm lỵ sở huyện Hà Đông xưa, tôi ngược lên các làng Phú Trà, Phú Xuân Trung, Khánh Thọ, Dương Đàn, Tân An… rồi theo di tích một lũy đá đắp từ đầu triều Nguyễn ra đến các làng Lâm Môn, Lai Cách, Đại Đồng, Cẩm Khê, Trường Thành, An Tráng và dừng chân ở làng Tây Lộc - quê cụ Phan Châu Trinh - trước khi qua các làng ở phía nam huyện Lễ Dương xưa (nay là huyện Thăng Bình).
Tại vùng này tôi gặp nhiều di tích, tư liệu đáng chú ý như bộ gia phả có ghi tên hai võ tướng thời Tây Sơn Lê Văn Thủ và Lê Văn Long; tấm bia có bài minh kể về quãng thời gian lưu lạc đến phủ Quy Nhơn của vợ một võ quan giữ cửa biển An Hòa trong thời Tây Sơn hay những lời kể phong phú của hậu duệ tộc Phan về thời niên thiếu của chí sĩ Phan Châu Trinh...
Ở vùng Thăng Bình, tôi đã qua các làng Phú Hòa, Địch Thái, Tuân Dưỡng, An Thái, Trà Long, Phô Thị, Trà Sơn... để tìm hiểu qua các tư liệu hiện còn về huyền thoại bà Phô Thị, về đình Trà Luông (do đọc trại từ tên Trà Long), về các nghĩa sĩ tham gia Khởi nghĩa Cần Vương 1885 - 1886, về các nho sĩ thành đạt trong khoa danh, trong đó có ông Nguyễn Bá Tuệ - người đỗ tiến sĩ đầu tiên ở nam Quảng Nam.
So với hơn 400 xã, thôn, phường thuộc hai huyện Lễ Dương và Hà Đông của phủ Thăng Bình cuối thế kỷ 19 được thống kê trong sách “Đồng Khánh địa dư chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn thì những làng xã xưa tôi đã đi qua chỉ khoảng một phần mười; nhưng trong 1/10 ấy, tôi đã thu thập được biết bao kiến thức mới mẻ - chưa từng được công bố - về đất và người ở vùng Nam Quảng Nam xưa.
Và từ những cuộc điền dã của một người già yêu quê xứ, tư liệu về đất và người xứ Quảng cứ đầy lên, từng chút một...