Truyện ngắn

Chuyến tàu ngược gió

NGUYỄN BÁ HÒA 22/06/2025 12:45

Tàu sẽ rời ga lúc mười chín giờ. Toa giường nằm của ông Công đã có hai người. Chàng trai trẻ ở giường tầng trên đang loay hoay tìm chỗ nhét chiếc va ly, ông già ở tầng dưới đã nằm tự bao giờ. Ông Công đẩy ba lô vào một chỗ trống, thoáng nhìn quanh một vòng rồi cũng lên giường, hết ngồi lại nằm. Chẳng biết làm gì, bật đèn trên đầu giường, lôi quyển sách nhét trong túi áo ra đọc.

CHUYEN TAU NGUOC GIO TN
Minh họa: HIỂN TRÍ

Tiếng còi tàu, tiếng máy xình xịch, vậy là tàu đã chuyển bánh. Chàng trai ngồi dậy lôi chiếc laptop ra làm việc. Ông già chẳng chú ý đến xung quanh, đôi mắt đói ngủ, vẫn nằm, tay chăm chăm ôm cái bọc như sợ bị va đập sẽ vỡ. Thỉnh thoảng ông nhìn lên khoảng không trước mặt như mường tượng ra một điều gì rồi lại nhìn cái bọc đang ôm trong tay.

- Ông tìm chỗ nhét cái bọc gì đó để chỗ mà nằm cho thoải mái.

Ông Công bỏ quyển sách xuống nhìn ông già bắt chuyện. Một thoáng ngạc nhiên nhưng rồi cũng trả lời.

- Không nhét vào đâu được, sợ vỡ thì khổ!

Chàng trai trẻ vui vẻ nói đùa.

- Đồ cổ, lọ cổ hả ông!

- Chỉ là cái hũ sành thôi, nhưng...

Ông già ngập ngừng. Ông ngồi dậy, tay vẫn giữ chặt cái hũ sành, dựa lưng vào thành tàu. Chàng trai trèo xuống giường ngồi bên ông già gợi chuyện.

- Đi tàu khó ngủ thật, ông xuống ga nào?

Ông già nói bâng quơ thay cho câu trả lời.

- Tàu vắng khách, cứ tưởng...

- Ông tưởng gì nào?

Thấy chàng trai nhiệt tình góp chuyện ông già muốn yên lặng cũng chẳng được.

- Tôi tưởng khách chen lấn dữ lắm, tưởng hai ba người chen chúc một giường.

- Kinh tế thị trường làm gì có chuyện ấy, nghe ông nói cứ như thời xưa!

- Cậu biết gì về thời xưa?

- Dạ không, chỉ nghe ba mẹ kể thời bao cấp khổ lắm, thế thôi!

- À ra là thế!

Ông Công buông sách ngồi dậy.

- Chuyện ngày xưa bao giờ cũng hay cũng đẹp, dẫu là gian khổ khó khăn, chính vì thế nhiều người sống cùng hoài niệm và rồi chết cùng với hoài niệm.

- Bác nói hay lắm, như một nhà thơ.

Như tự giới thiệu về mình, ông Công đọc ngay mấy câu: “Tiếng quân reo từ lòng sông âm vang trời Đại Việt/ Minh quân uy dũng lòng dân sôi sục dựng sóng xây thành/ Tài trí Quốc công trận địa cọc nghìn năm loang máu giặc/ Những thủy binh oai hùng dụ nước triều lên điệu con nước xuống/ Bạch Đằng giang giáo gươm quân tướng quyết lòng đại thắng quân Nguyên/ Bản hùng ca muôn đời lưu danh sử Việt hào khí thiêng liêng”.

Chàng trai vỗ tay khen:

- Hay lắm, tự hào lắm! Bác là nhà thơ?

Ông Công không trả lời, lại đọc tiếp: “Mười ngôi mộ quây quần - mười cô gái/ E ấp lược gương màu hư không mượt mà tóc chảy/ Cung đường tình yêu nỗi riêng tư khuất lấp chiến trường/ Mới hôm nào tiếng hát tiếng cười gọi nhau át tiếng bom rơi/ Bỗng mặc niệm linh hồn thanh xuân chiều nay về miền mây trắng/ Đồng Lộc những vầng trăng trinh liệt mãi mãi sáng soi đời”.

Ông già nhìn Công thán phục.

- Ông viết về mười cô thanh niên xung phong hy sinh ở Đồng Lộc đầy cảm xúc, họ đúng là những vầng trăng trinh liệt!

Nhận những lời khen xong ông Công chính thức giới thiệu:

- Thưa ông anh và cháu trai, tôi là Công, xưa là phóng viên chiến trường chứ chẳng là nhà văn nhà thơ gì cả, hôm nay gặp những người yêu thơ, tôi rất cảm động, đời này dễ gì...

Công bỏ lửng mấy câu cuối nhưng ai cũng hiểu ông muốn nói gì. Sau vài phút yên lặng, chàng trai lại trịnh trọng.

- Nhà thơ xuống ga nào vậy?

Công trợn mắt lớn giọng rồi lại dịu giọng ngay.

- Đã bảo không phải nhà thơ mà... ừ xuống một ga nhỏ, có nói bạn cũng không biết!

Hình như ông Công cảm nhận được một sự đồng cảm từ những bạn mới nên mở lòng mở chuyện. Tiếng ông nhỏ lại hơi khàn thỉnh thoảng lẫn khuất trong tiếng xình xịch xình xịch của con tàu nhưng mọi người đã hiểu chuyện. Ông sẽ xuống một ga nhỏ ở Quảng Nam, rồi bắt xe ngược lên vùng trung du, gặp mặt đồng đội là phóng viên chiến trường một thời chiến đấu nơi đây, dưới chân núi xã Mù U, cùng nhau thắp hương cho những người đã ngã xuống. Ông may mắn còn sống để mỗi năm về chiến trường xưa, đọc cho nhau nghe những bài thơ, kể về những lần tác nghiệp không quản mưa bom. Mảnh đạn pháo chẳng biết ghim vào đâu trong đầu khiến ông trở thành “ông già gàn dở” trong mắt người khác. Kể xong ông lại thở dài.

- Nghe đâu cái làng quê ấy mai mốt đổi tên mới rồi, tiếc cho Mù U!

- Tên Mù U hay quá bác nhỉ, nhưng con nghĩ nó không mất đâu, vẫn trong tim của bác và đồng đội đó thôi.

Ông già nhìn chàng trai với ánh mắt không vui.

- Không còn là mất chứ nhưng nhị gì nữa!

Ông Công nhìn ông già đồng cảm. Ông già không trả lời vội, ôm cái bọc vải chặt hơn.

- Cái hũ sành này đựng nhúm đất, gọi là xương thịt của đồng đội tôi, hy sinh ngay cửa ngõ Sài Gòn khi theo đoàn quân đưa tin giải phóng miền Nam và may mắn được một gia đình an táng trong vườn nhà. Khu vườn qua bao lần đổi chủ, người chủ mới phát hiện tấm bia nhỏ bị vùi lấp có tên tuổi, quê quán... Nay đưa đồng đội về mà Mù U không còn!

Ông Công nghe chuyện rơm rớm nước mắt.

- Ông anh nghĩ sai rồi, quê là nơi chôn nhau cắt rốn, dù mang tên gì nó vẫn là quê mà!

Chàng trai tiếp lời:

- Chỉ là cái tên thôi mà…

Ông già có vẻ như không chịu cái lý của bọn trẻ.

- Cậu không có quê chắc? Con người như cái cây, đâm chồi nẩy lộc từ đất nào thì mang ơn đất ấy.

Tiếng ông già hòa cùng tiếng tàu chạy xình xịch xình xịch rồi lẫn vào còi tàu hú dài hun hút. Chàng trai vừa leo lên giường mình vừa nói với mấy câu cuối cùng.

- Gốc gác nguồn cội ở trong tim mình. Kẻ sống trên đất quê mà phụ bạc quê không bằng người xa quê mà đau đáu với quê.

Trẻ con mà lên giọng dạy đời, tức cành hông, nhưng nó nói cũng không sai. Không ai nói thêm lời nào bởi ai cũng cho mình là đúng và nghĩ rằng người kia cũng đúng. Ông Công thở dài nghe như tiếng gió, tức ngực và khó chịu.

Con tàu chạy chậm lại, hình như sắp dừng ở một ga nào đó, gió thổi ngược mang những âm thanh ném về phía cuối con tàu. Trong tiếng gió ông nghe rất rõ: “Già lú lẫn mà tưởng mình giỏi, bày đặt ý này ý nọ”. Ông vói nhìn lên chàng trai trẻ, cậu ta đang làm việc trên máy tính. Lại nhìn ông Công, ông ấy đang đọc sách. Vậy là ông đã tự nói với mình sao!?

Tàu dừng lại đón trả khách. Chàng trai tranh thủ dạo ra cửa. Một vệt sáng, một vòm sáng, một vùng sáng, một cánh đồng mênh mông bạt ngàn ánh sáng hiện ra phía ngoài ô cửa. Mọi người ra khỏi phòng nhìn cánh đồng ánh sáng chiêm ngưỡng và trầm trồ. Thì ra cánh đồng trồng cây thanh long trải dài bạt ngàn tít tắp được treo đèn trông như những vì sao đang lấp lánh, thứ ánh sáng huyền ảo và lãng mạn, đẹp không thể nào diễn tả được, chỉ cảm nhận bằng tình quê tình đất tình người.

Tàu lại chuyển bánh và cánh đồng ánh sáng lại khuất lấp, lại hiện ra, đẹp làm sao!

- Quê mình đẹp quá các bác ơi!

Chàng trai trẻ trở về giường. Ông già tay vẫn ôm chặt hũ sành chứa nhúm đất còn chút xương thịt của đồng đội. Ông Công lẩm bẩm nhưng ai cũng nghe rất rõ. “Nhịp đập trái tim mỗi người là nỗi niềm đất nước/ Đất nước của những con người tài trí nhân hậu bao dung/ Máu nghĩa nhân dưỡng nuôi hồn dân tộc khí chất anh hùng/ Nguyễn Du viết Kiều thành lời ru bên vành nôi trẻ/ Nguyễn Trãi viết Đại cáo bình Ngô lưu truyền bao thế hệ/ Những vần thơ hóa hoa văn khắc hình Tổ quốc bốn ngàn năm”.

Chuyến tàu ngược gió vẫn lao đi trong trong đêm mang theo bao nỗi niềm ... xình xịch... xình xịch... xình xịch...

NGUYỄN BÁ HÒA