Không để thời gian nông nhàn, gần đây bà con nông dân, nhất là các “lão nông tri điền” ở vùng đông đã có sáng kiến tìm những việc làm phù hợp để cải thiện thu nhập; trong đó cào lươn là công việc mới mẻ.
Dụng cụ cào lươn đơn giản chỉ với một cán cào được làm từ một đoạn ngọn tre đực già, thẳng đuột, không sâu mọt dài không quá 1,2m và một đoạn sắt tròn 8mm dài khoảng 50cm.
Ông Trần Văn Lập, thôn Đông Tác, (xã Bình Nam, Thăng Bình) cho biết, dụng cụ cào lươn đơn giản, ai cũng có thể tự làm. Nếu không làm được thì mang đoạn sắt đến nhờ thợ rèn cho vào lửa nung đỏ rồi đập dẹp, uốn vòng cung, tạo thành hình chữ U, sau đó làm khoen và tra vào đoạn tre là xong.
Để hỗ trợ cho nhau, mỗi khi đi cào lươn phải có từ 4 người trở lên, đồng thời chọn những đoạn sông có lớp bùn dày, ít chướng ngại vật. Nông dân lội xuống sông, nước ngập đến thắt lưng, rồi dàn thành hàng ngang, mỗi người cách nhau 3 - 4m, bắt đầu thả cào xuống đáy sông, luôn tay đẩy qua đẩy lại trong lớp bùn. Một chiếc can nhựa được khoét lỗ, buộc dây nối vào thắt lưng của mỗi người, do nổi trên mặt nước nên người đi đến đâu can nhựa trôi theo đến đó tiện cho việc bỏ lươn vào can mỗi khi cào được.
Lươn là loại da trơn, bắt chúng rất khó nhưng trong quá trình cào đôi tay sẽ tạo nên lực mạnh, lưỡi cào sẽ cắt những đường trong lớp bùn, nếu gặp lươn nó sẽ mắc vào khe cào hình chữ U. Sau đó nhanh chóng đưa cào lên khỏi mặt nước và dùng những ngón tay kẹp chặt con lươn bỏ vào miệng can.
Quảng Nam có hệ thống sông hồ, ao đầm nhiều và lượng phù sa phong phú là môi trường thuận lợi cho lươn sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên các dòng sông này đang bị một lượng lớn rác thải, trong đó túi ny lon và một số loại rác thải khó phân hủy nằm dưới đáy sông, lẫn trong bùn ảnh hưởng đến nghề cào lươn. Trước tình hình đó, người cào lươn phải dành phần lớn thời gian để khảo sát, tìm hiểu thật kỹ hiện trạng của những dòng sông trước khi chọn nơi thả cào.
Không thường xuyên như những người cào lươn chuyên nghiệp, các “lão nông tri điền” ở các xã vùng đông chỉ tranh thủ những lúc nông nhàn rủ nhau tổ chức từng tốp từ 4 người trở lên, đi dọc các dòng sông trên địa bàn để cào lươn và chỉ cào trong buổi sáng.
Ông Nguyễn Kim Ngọc (thôn Cổ Linh, Bình Sa) cho biết, thường ngày từ 7 giờ đến 10 giờ sáng, cào được từ 1,5 – 2kg lươn, thu nhập bình quân 300 nghìn đồng/người. Lươn có giá trị dinh dưỡng cao, được chế biến thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng, nhất là lươn sống ở môi trường tự nhiên càng được các thực khách ưa chuộng. Do vậy, lươn sau khi đi cào về đều được chủ các nhà hàng, quán ăn đến tận nhà để thu mua với giá cả ổn định, giúp những người cào lươn có thêm khoản thu nhập để cải thiện cuộc sống gia đình.
Mặc dù người làm nghề cào lươn ngày càng nhiều, lươn ở các dòng sông ngày càng ít lại nhưng chưa có ngày nào người làm nghề cào lươn đi về với bàn tay trắng bởi chỗ này cào không được thì di chuyển đến chỗ khác. Cào lươn khỏe hơn các nghề lao động khác nhưng thu nhập khá, công việc nhẹ nhàng, tuy nhiên để bắt được lươn phải dầm mình trong nước nhiều giờ liền. Nghề cào lươn không mang tính tận diệt bởi đầu cào lươn làm bằng sắt theo kích cỡ cố định nên chỉ bắt được những con lươn lớn, nên nguồn lợi vẫn có thể tái sinh trong môi trường tự nhiên.