(QNO) - Nam trân (loòng boong) là sản vật quý của xứ Quảng, hình tượng cây nam trân đã được vinh danh trên Cửu đỉnh (Đại Nội Huế). Có người cho rằng, sự tích trái nam trân liên quan đến cuộc chiến giữa quân Trịnh và quân Nguyễn. Tuy nhiên, ngược dòng lịch sử cho thấy không phải là như vậy…
Cuộc chiến tay ba: Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, trong suốt 46 năm ròng rã (1627- 1672), chúa Trịnh và chúa Nguyễn có bảy lần đánh lớn và một số trận khác quy mô nhỏ hơn. Chiến trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Hai bên đều có lợi thế và yếu điểm nên không thể tiêu diệt được nhau, dù cùng mang khẩu hiệu “Phù Lê”. Sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến, chia cắt lâu dài, lấy sông Gianh (sử sách hay gọi là Linh Giang) làm ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Bản đồ Việt Nam khoảng năm 1760, vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam. |
Một trăm năm sau khi đình chiến, một sự kiện lớn ở Đàng Trong làm xáo trộn cả Nam Hà lẫn Bắc Hà, đó là ba anh em Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa nhân lúc chính quyền chúa Nguyễn lục đục rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Chúa Trịnh nhận thấy thời cơ tiêu diệt họ Nguyễn đã đến. Lấy danh nghĩa đánh Tây Sơn giúp Nguyễn, tháng 9 âm lịch năm 1774, chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cử lão tướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam thượng tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng mang 36.000 quân nam tiến. Quân Trịnh tiến tới địa giới Bắc Bố Chính, tướng Nguyễn là Trần Giai chạy sang đầu hàng, làm hướng đạo cho quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc vượt sông Gianh. Chúa Nguyễn biết ý Trịnh muốn đánh chiếm nên điều quân kháng cự. Được sứ giả họ Nguyễn là Kiêm Long gợi ý, Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể tiến đánh lũy Trấn Ninh. Các tướng Nguyễn làm nội ứng mở cửa đầu hàng. Quân Trịnh chiếm được Quảng Bình.
Trái Nam Trân (loòng boong) |
Tháng 11.1774, chúa Trịnh Sâm tự cầm thủy quân vào Nghệ An làm thanh viện cho quận Việp. Quận Việp đánh Lưu Đồn, thống suất bên Nguyễn là Tống Hữu Trường bỏ chạy. Quận Việp tiến đến Hồ Xá dùng chiêu bài khác, lấy cớ trừng phạt Trương Phúc Loan chuyên quyền để nam tiến tiếp. Quân Nguyễn yếu thế không chống nổi, Định vương Nguyễn Phúc Thuần phải trói Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh. Giết Loan rồi, Hoàng Ngũ Phúc lại dùng lý do giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến vào Phú Xuân hội binh. Chúa Nguyễn sai các tướng trá hàng để quấy rối Quảng Bình, Bố Chính sau lưng quân Trịnh, nhưng các cánh quân đó bị quân Trịnh nhanh chóng phá tan. Chúa Nguyễn điều Tôn Thất Chí, Nguyễn Văn Chính ra đánh đều bị quận Việp đánh bại. Quận Việp sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Nghĩa Phác theo đường núi qua thác Trầm Ma đánh tan quân Nguyễn, giết chết Chính.
Hình tượng cây Nam Trân được khắc ở tầng trên của Nhân đỉnh. |
Đầu năm 1775, quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần không chống nổi phải bỏ chạy vào Quảng Nam cùng với người cháu ruột là Nguyễn Phúc Dương. Phúc Dương là con thế tử Nguyễn Phúc Hiệu, cháu nội của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, là em con chú của Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh). Ông được lập làm Đông cung thế tử để mưu đồ việc khôi phục và chống lại quân của Hoàng Ngũ Phúc.
Nguyễn Nhạc nhân chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam bèn mang quân hai đường thủy bộ từ Quy Nhơn ra đánh. Liệu chống giữ không được, Nguyễn Phúc Thuần cùng người cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy về Gia Định, trong khi Đông cung Dương được lệnh ở lại trông coi Quảng Nam. Ông bị Nguyễn Nhạc bắt đem về Hội An, rồi về An Thái, Bồng Sơn để thu phục nhân tâm.
Tháng 4.1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn. Lần đầu tiên sau 150 năm nam chinh, họ Trịnh mới tiến tới Quảng Nam.
Như vậy, trên đất Quảng Nam ngày ấy, đã diễn ra cuộc chiến lúc đầu là giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn, sau đó giữa quân Tây Sơn và quân Trịnh; không có cuộc chiến giữa quân Trịnh và quân Nguyễn.
Vinh danh nam trân
Điều chắc chắn là sự tích trái nam trân gắn liền với cuộc giao tranh giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn, mà kết cục là quân Nguyễn phải lánh vào rừng Quảng Nam, thượng nguồn Ô Gia. Theo tương truyền, giữa lúc đói mệt, chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (có truyền thuyết cho là công tử Nguyễn Phúc Ánh, có truyền thuyết lại cho là Đông cung thế tử Dương?) gặp được rừng cây loòng boong, bèn hái lấy trái ăn, nhờ đó đã dịu cơn khát và đỡ đói.
Không rõ chuyện thực hư thế nào nhưng có một sự thật là, khi lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long, Nguyễn Ánh đã đặt tên cho trái loòng boong là Nam Trân, có nghĩa là ngọc quý ở phương nam. Loòng boong còn có tên gọi khác: phụng quân mộc (cây gặp vua). Triều Minh Mạng quy định mỗi kỳ trái chín phải tiến vua, ban hành quy chế riêng đối với các khu rừng loòng boong và đặt chức Quản Nam Trân để quản lý vườn cây trái thiên nhiên này, có quyền huy động dân đinh ba xã: Tân Đợi, Hội Khách, Hữu Trinh (thuộc địa bàn phía tây huyện Đại Lộc ngày nay) canh giữ vườn trái. Không dừng ở đấy, khi tổ chức đúc bộ Cửu đỉnh “để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã trụ lại.., để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, đời truyền đời sau”, vua Minh Mạng cho khắc hình tượng cây Nam Trân ở tầng trên của Nhân đỉnh (đỉnh này nằm hàng thứ nhất bên trái tại sân chầu Thế Tổ Miếu trong Đại Nội Huế, tượng trưng cho lòng nhân ái).
VÂN TRÌNH