Ông phó bảng ở làng Cẩm Lậu

LÊ THÍ 12/03/2023 08:24

Dương Hiển Tiến người làng Cẩm Lậu (Điện Bàn), là 1 trong 5 con “chim phụng” của Quảng Nam trong khoa thi Hội năm Mậu Tuất (1898). Rất tiếc ông là con chim phụng yểu mệnh khi còn rất trẻ.

Vùng đất Gò Nổi (Điện Bàn).
Vùng đất Gò Nổi (Điện Bàn).

Làng Cẩm Lậu

Làng Cẩm Lậu (nay là thôn Cẩm Phú, xã Điện Phong, Điện Bàn), là một làng cổ của Quảng Nam. Sách Ô châu cận lục do Tiến sĩ Dương Văn An viết năm 1555 được xem là tài liệu cổ nhất giới thiệu về các làng xã của vùng Nam Hải Vân, cho biết Cẩm Lậu từng có tên là Kim Lũ, một trong 66 làng của huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong.

Làng được đổi tên từ Kim Lũ thành Cẩm Lậu có lẽ sau 1558 hoặc 1604 (do kỵ húy tên của thân phụ Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim), sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi vào kinh lý Quảng Nam và nâng Điện Bàn lên thành phủ, nhập vào dinh Quảng Nam.

Việc đổi tên của làng có điều đặc biệt hơn việc đổi tên của các làng khác vì không giữ lại một trong hai chữ để dễ truy tìm sau này (Các làng khác khi đổi tên thường giữ lại một chữ như Bàn Cố - Bàn Thạch, Nhân Triêm - Phú Triêm,  Hà Khúc - Hà Nông…).

Trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776), Cẩm Lậu là 1 trong 24 xã, phường, giáp của tổng Uất Lũy, huyện  Diên Khánh. Trong Địa bạ Gia Long (1812 - 1818), Cẩm Lậu lại thuộc tổng An Nhơn Trung.

Làng có tứ cận: “Phía đông giáp xã Thi Lai, thôn Hoa Trà (thuộc Chu Tượng huyện Lễ Dương) lấy bờ đê làm ranh giới. Phía tây giáp xã Đông Phiên (tổng Đa Hòa Trung), xã Thi Lai, thôn Hoa Trà (thuộc Chu Tượng), lấy bờ ruộng làm ranh giới. Phía nam giáp hai thôn Ngọc Sa, Đông Phúc, xã Phúc Lộc (thuộc Phú Châu), xã Phú An Đông giáp ngũ, xã Thi Lai, thôn Hoa Trà (thuộc Chu tượng, huyện Lễ Dương), xã Thi Lai và sông. Diện tích 498 mẫu 9 sào 7 thước, 6 tấc”.

Sang thời Đồng Khánh, theo sách “Đồng Khánh địa dư chí” (1887 - 1890), Cẩm Lậu vẫn thuộc tổng An Nhơn Trung, huyện Diên Phước và duy trì mãi đến trước Cách mạng Tháng Tám (1945).

Thời Việt Minh, Cẩm Lậu thuộc xã Điện Phong. Thời Việt Nam Cộng hòa (1954 - 1975) Cẩm Lậu là xã Phú Phong thuộc khu Phù Kỳ. Sau 1975 đến nay làng trở lại xã Điện Phong như thời kỳ trước 1954.

Bản điều tra của trường Viễn Đông Bác cổ ngày 12/5/1944 có cho biết: “Làng Cẩm Lậu còn giữ một quyển châu bộ niên hiệu Gia Long thứ 13 (1814), trong có kê khai các sở ruộng vườn của làng hơn 400 mẫu. Nhưng thực tế được 600 mẫu, dân số hơn 2.000 người.

Thổ sản có lúa, sắn, bắp, đậu phụng. Nhưng sản phẩm không do dân tiêu thụ. Dân làng không chuyên hẳn về nghề trồng trọt, có nghề trồng dâu nuôi tằm rồi bán kén cho các làng khác để dệt là đặc sắc nhất”.

Nói đến Cẩm Lậu ngày nay chúng ta thường liên tưởng hai sự kiện: Thứ nhất là vị khoa bảng duy nhất của làng: Phó bảng Dương Hiển Tiến, một “con chim phụng” yểu mệnh. Thứ hai, thôn Cẩm Phú đang được đầu tư để trở thành một điểm du lịch cộng đồng đặc sắc của Quảng Nam.

Con chim phụng gãy cánh

Dương Hiển Tiến sinh năm Canh Dần (1866) tại làng Cẩm Lậu. Năm 1892, ông đỗ cử nhân tại trường thi Thừa Thiên vị thứ 9/27.

Năm 1898, Dương Hiển Tiến đỗ phó bảng trong khoa Ngũ phụng tề phi của Quảng Nam. Khoa này có 1 hoàng giáp (Đào Nguyên Phổ), 7 đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và 9 phó bảng. Dương Hiển Tiến là vị phó bảng cuối cùng của khoa.

Khi vinh quy bái tổ, Tổng đốc Nam - Ngãi Đào Tấn tổ chức tiệc chiêu đãi các vị tân khoa tại Khán hoa đình (bên bờ nam sông Vĩnh Điện), Dương Hiển Tiến và Ngô Chuân được Đào Tấn xuất khẩu tặng một bài tứ tuyệt, được Trần Gia Thoại dịch như sau: “Non sông hun đúc lắm tài hoa/ Một loạt ba bông nở đậm đà/ Cung Quảng ngoài hiên còn đợi khách/ Trộm đem bút mực vẽ Hằng Nga”.

Không có tài liệu nào nói về hoạn lộ của Dương Hiển Tiến nhưng Dương Thị Lý trong bài “Danh nhân họ Dương” cho biết, sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Huấn đạo (không rõ thuộc huyện, tỉnh nào). Làm quan được một năm, chán cảnh quan trường, ông cáo quan về quê mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông, không chỉ học trò ở vùng Gò Nổi mà nhiều nơi khác của Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc… cũng đến xin thọ giáo.

Năm 1907, Dương Hiển Tiến bị bệnh thương hàn và qua đời đột ngột khi mới 41 tuổi. Gia cảnh ông vốn khó khăn. Đồng môn, học trò và làng xã phải chung tay lo tang lễ cho ông.

Tại Quảng Nam trước đây có người cho rằng khi đón tiếp các vị tân khoa, Tổng đốc Đào Tấn có cho thêu một bức trướng hình 5 con chim phụng, 3 con lớn hơn đang bay ở phía trước, tượng trưng cho 3 tiến sĩ, 2 con con nhỏ hơn trong tư thế xếp cánh ở phía sau tượng trưng cho 2 phó bảng (Dương Hiển Tiến và Ngô Chuân).

Người ta cho rằng, đây là “điềm gở” đối với hai vị phó bảng, đó là những con “chim phụng gãy cánh”. Điều này vận vào hai ông: Chim phụng một khi đã xếp cánh thì làm sao có thể bay xa được! Cả Dương Hiển Tiến và Ngô Chuân đều chết sớm (Ngô Chuân chết năm 1899 khi mới 26 tuổi).

Ngày nay, về vùng Gò Nổi gặp các cụ cao niên vẫn được nghe kể giai thoại lý thú về gia cảnh và tinh thần hiếu học của Dương Hiển Tiến. Thời còn để chỏm, Dương Hiển Tiến đã nhận ra gia cảnh khó khăn của mình nên chủ động xin cha cho mình sang ở “đợ” nhà cụ Tú họ Đoàn trong làng để hầu hạ cụ và học thêm chữ nghĩa.

Được cụ Tú nhận lời, cha con Dương Hiển Tiến rất mừng. Ông làm việc siêng năng, chăm chỉ. Sáng nào cũng thức dậy sớm, quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp sách vở của thầy ngay ngắn trên án thư, rồi rót nước pha trà hầu thầy. Xong công việc, ông thường quanh quẩn bên lớp học để được nghe thầy giảng bài cho các anh chị học trò may mắn hơn ông. Việc “học lóm” của ông không được thầy và các bạn để ý.

Một hôm, cụ Tú Đoàn ra vế đối cho học trò: “Ngói đỏ lợp nhà Nghè”. Cả lớp không có người nào làm được vế đối chỉnh. Cụ Tú rời lớp, ra vườn thư giãn để học trò suy nghĩ. Gặp dịp, Dương Hiển Tiến liền mời thầy tách trà và xin thầy cho mình được đọc vế đối: “Câu của thầy là “Ngói đỏ lợp nhà Nghè”; con xin đối lại: “Đá xanh xây cầu Cống”!

Cụ Tú Đoàn ngạc nhiên. Cậu bé giúp việc lại hơn hẳn học trò “chính quy” của mình. Vế đối quá sức chỉnh, lại thể hiện một khát vọng đáng quý. Hỏi chuyện mới biết cậu bé giúp việc thông minh và hiếu học lâu nay vẫn “học lóm” những điều ông dạy.

Sau buổi đó, cụ Tú Đoàn cho mời cha Dương Hiển Tiến sang nhà và xin nhận Dương Hiển Tiến làm con nuôi để ngày ngày lên lớp học với thầy, thời gian rảnh mới giúp đỡ việc nhà cho thầy.

Từ đó, Dương Hiển Tiến mới có thể chuyên tâm vào việc học mà không phải lo nghĩ chuyện áo cơm. Ông nổi tiếng là học sinh chăm chỉ, sáng dạ ở trường cụ Tú Đoàn, rồi trường Giáo Điện Bàn và trường Đốc Thanh Chiêm. Ông luôn được Đốc học Trần Đình Phong khen ngợi và giúp đỡ.

(0) Bình luận
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Ông phó bảng ở làng Cẩm Lậu
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO