Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) là một nhà cải cách thực hành của nước ta vào giữa thế kỷ 19. Ông từng làm Bố chánh Quảng Nam (1864 - 1865) và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người dân.
Bố chánh Đặng Huy Trứ. |
Nhà cải cách thực hành
Đặng Huy Trứ, tự là Hoàng Trung, hiệu là Vọng Tân và Tĩnh Trai, sinh ngày 16.5.1825 tại làng Thanh Lương (nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), trong một gia đình nhà nho có nhiều người đỗ đạt làm quan dưới triều Nguyễn.
Từ nhỏ Đặng Huy Trứ đã nổi tiếng thông minh. Năm 1843, ông đỗ cử nhân (khoa này cha ông chỉ đỗ Tú tài). Khoa thi Hội năm 1847, ông đỗ tiến sĩ nhưng vào thi Đình bài làm phạm húy nên bị đánh 100 roi, lột hết văn bằng cử nhân, tiến sĩ và cấm thi vĩnh viễn. Ông về nhà lo việc dạy học và viết sách. Tám năm sau vào năm 1855, nhờ một đại thần tâu xin, ông được vua Tự Đức ân xá cho đi thi Hội và đỗ tiến sĩ.
Đặng Huy Trứ từng trải qua các chức vụ: Thông phán Ty Bố chánh Thanh Hóa, Tri huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), Tri phủ Thiên Trường (Nam Định), Hàn lâm viện trước tác, Ngự sử, Bố chánh Quảng Nam, Biện lý bộ Hộ, Bình Chuẩn sứ, Thương biện tỉnh vụ Hà Nội, Khâm phái thương biện quân vụ Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), Bang biện quân vụ Lạng - Bằng - Ninh - Thái (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh, Thái Nguyên).
Cuối năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội, Đặng Huy Trứ cùng Hoàng Kế Viêm lui quân về trấn giữ căn cứ Đồn Vàng ở Hưng Hóa, tiếp tục tổ chức lực lượng kháng chiến chống Pháp. Tại đây, ông lâm bệnh và mất vào ngày 7.8.1874 tại xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vàng khi mới 49 tuổi.
Đặng Huy Trứ từng hai lần được triều đình cử sang Hồng Kông, Ma Cao để thăm dò tình hình các nước phương Tây. Cả hai lần ông đều mua nhiều tàu thủy, đại bác, đạn dược đem về nước chuẩn bị cho công cuộc chống phương Tây xâm lăng sau này. Tại Hồng Kông, ông cũng học được nghề nhiếp ảnh mang về phổ biến trong nước và ngày nay được tôn làm ông tổ của nghề nhiếp ảnh Việt Nam. Đặng Huy Trứ là tác giả của hàng trăm bài thơ và hàng chục quyển sách trong đó nổi tiếng nhất là bộ Từ thụ quy yếu bàn về việc chống tham nhũng.
Ông là nhà cải cách thực hành của nước ta vào giữa thế kỷ 19 với chủ trương phát triển kinh tế (khai mỏ, mở mang thủ công nghiệp và thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải); phát triển khoa học quân sự (đưa ra tư tưởng chiến tranh nhân dân cho mọi chiến lược và chiến thuật, cử người đi học hỏi những kỹ nghệ phương Tây như đóng thuyền, chế tác vũ khí); cải cách xã hội (lấy dân làm gốc, chống hối lộ - tham nhũng, đề cao sự cần kiệm liêm chính - chí công vô tư của quan lại). Ông lập ra các thương điếm như Lạc Sinh Điếm, Lạc Thanh Điếm và Ty Bình Chuẩn để giao thương với phương Tây, tạo dựng nền tảng tài chính và quân sự cho triều đình.
Đặng Huy Trứ có hai lần đến làm việc tại Quảng Nam, lần thứ nhất đến dạy học ở Vĩnh Điện năm 1848, lần thứ hai đến dạy tại trường Tư thục Thanh Hương ở Hội An năm 1849. Ông cũng hai lần đến công vụ tại Quảng Nam, lần thứ nhất vào năm 1856 với tư cách là Khâm sai đi kiểm tra tàu thuyền tại Đà Nẵng, lần thứ hai với tư cách là Bố chánh Quảng Nam từ 1864 đến tháng 7.1865.
Hiện nay ở Quảng Nam còn truyền tụng bài: Vãng quân thứ Đà Nẵng tức sự (Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại) và tại Hội An còn một số bút tích của ông như bức hoành phi tại thánh miếu Minh Hương, văn bia tại chùa Ông, văn bản Hán Nôm tại chùa Viên Giác viết về Thiền sư Quán Thông.
Dấu ấn trên đất Quảng
Đầu năm 1864, Quảng Nam bị hạn nặng, dân bị đói, đi lưu tán khắp nơi. Sĩ phu xứ Quảng đã thông qua Tham tri bộ Lại - Phạm Phú Thứ dâng sớ xin triều đình cử Đặng Huy Trứ vào giữ chức Bố chánh Quảng Nam để chống hạn và cứu đói cho dân. Triều đình đồng ý, thăng cho Đặng Huy Trứ tước Hồng lô tự khanh và cử vào Quảng Nam. Vừa nhậm chức Đặng Huy Trứ lao ngay vào việc cứu đói, cứu hạn, kêu gọi mọi người cứu giúp nhau. Ông kêu gọi mỗi nhà giảm bớt một phần cơm để lấy gạo nấu cháo nuôi những người bị đói đang lưu tán. Nạn đói nhờ thế tạm thời được giải quyết.
Hạn vừa xong thì cuối năm lại xảy ra bão lụt. Đặng Huy Trứ lại lao vào cứu dân. Ông dâng sớ tâu về triều xin mở kho lương thực để cứu đói. Không cần lệnh vua ông tự ý mở kho phát chẩn và chấp nhận “một mình chịu kỷ luật”. Bên cạnh việc cấp tốc cứu đói chống hạn và bão lụt, Đặng Huy Trứ dâng sớ về triều xin thay đổi những tri phủ, tri huyện bất tài và làm việc trì trệ. Ông cho khơi thông sông ngòi để làm thủy lợi và tạo thuận tiện cho giao thông đường thủy, đề xuất với triều đình lập các kho “nghĩa thương” ở các địa phương để tích trữ lương thực cứu đói cho dân nghèo; cho phép thu thuế bằng hiện vật đối với các hộ làm nghề thủ công; cho các hộ làm nghề dệt cửi lĩnh trước tiền mua nguyên vật liệu về dệt và bán hàng cho Nhà nước; kiến nghị thành lập “nghĩa trang” ở các địa phương để chôn cất người chết vào những nơi được quy hoạch. Tất cả những đề xuất của Đặng Huy Trứ đều được triều đình chấp thuận.
Bên cạnh việc lo cho dân, Đặng Huy Trứ không quên làm nhiệm vụ của một “tiến sĩ” (tiến cử lên cho vua những kẻ sĩ để gánh vác việc nước). Tháng 9.1864 Đặng Huy Trứ với cương vị là Bố chánh của tỉnh đã dâng sớ lên vua Tự Đức tiến cử ba người Quảng vốn là những người bị triều đình “cách lưu” đang sinh sống trên địa phận trấn nhậm của ông, đó là Nguyễn Quang Quýnh người làng Bàn Thạch (Duy Xuyên), Hoàng Diệu, người làng Xuân Đài (Điện Bàn) và Phạm Thanh Nhã người làng Mã Châu (Duy Xuyên). Trong tờ sớ Đặng Huy Trứ viết: “…Ông Nguyễn Quýnh, nguyên Bố chánh Khánh Hòa, ông Hoàng Diệu, nguyên Tri huyện Hương Trà và ông Phạm Thanh Nhã là những người trong hạt của thần. Cả ba đều là cử nhân, phó bảng xuất thân, đều là người cương trực, mẫn cán, từng kinh qua địa phương phủ huyện cai trị không nhiễu dân, tuy mắc lỗi chưa được phục chức nhưng khi ở địa phương hay phủ huyện đều được sở dân tin yêu, khi ra đi được mọi người nhớ. Những người như vậy không có nhiều. Nếu họ được nhà vua bỏ qua lỗi lầm mà đem dùng thì đều là những vị quan tốt, những hiền tài. Nghĩ rằng không nên vì một chi tiết mà để một người suốt đời mai một…”.
Đọc sớ tâu của Đặng Huy Trứ, vua Tự Đức đã ra lệnh cho bộ Lại bổ nhiệm ngay cho 3 người này.
Rất tiếc, Bố chánh họ Đặng phải rời Quảng Nam sau gần 20 tháng công vụ để về kinh nhận nhiệm vụ đặc biệt, đành dang dở nhiều dự tính tốt đẹp và sự tiếc nuối trong lòng người dân.
LÊ THÍ