Trong dịp Tết Quý Tỵ (2013), một bài thơ của tôi đã góp mặt trong buổi Thiền sư Nhất Hạnh cùng Tăng đoàn Làng Mai quây quần với nhau tại Xóm Mới bình thơ đón giao thừa. Bài thơ có tên “Khúc quê” đăng trên báo Tết Quảng Nam. Qua Internet trực tuyến từ Làng Mai, bài thơ còn được đến với các tu viện ở nhiều nước khác.
Gánh nước. (ảnh minh họa) |
BÌNH thơ đón giao thừa là một nét đẹp độc đáo trong các sinh hoạt văn hóa truyền thống từ nhiều năm nay ở Làng Mai. Chủ đề bình thơ đón Tết Quý Tỵ năm ấy, Thiền sư Nhất Hạnh chọn chủ đề “Bếp lửa hồng”, bình một số những bài thơ và nhạc của các tác giả: Phạm Duy, Phạm Thế Mỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Nhã Tiên và Xuân Tiên.
Khúc quê Em va gàu vào giếng khuya gọi ngàn đêm |
Chất giọng văn hiền như tâm tình của mẹ nói với con của thiền sư đã làm tôi bồi hồi xao xuyến. Dường như gần một nửa thế kỷ xa quê, dong ruổi vạn dặm khắp mọi miền trên trái đất này, quê xứ chưa bao giờ rời xa. Những Làng Mai, xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Mới, những hoa sen, hoa súng, hoa sim, hoa ổi, hoa chanh, những con đò, dòng sông, quả đồi, ngọn núi…, tất cả hòa tan trong máu huyết của Thiền sư Nhất Hạnh.
Bếp lửa hồng tượng trưng cho sự đoàn tụ, cho sự ấm áp, cho tình thương, cho hạnh phúc. Bếp lửa đó nằm ở đâu? Nó nằm đây (Pháp), hay ở bên nhà (Việt Nam)… Bếp lửa là hình ảnh rất thân quen. Chúng ta ai nấy đều mong muốn có một bếp lửa hồng, có một cái tổ ấm. Chính người xuất gia cũng vậy… Chất lửa phải từ trong trái tim đi ra. Đạo Bụt dạy chúng ta làm ra lửa, làm ra tình thương, làm ra sự hiểu biết. Và khi chúng ta học giáo lý Bụt thì chúng ta có thể chế tác được lửa, ngọn lửa ở trái tim chúng ta…
Bình bài thơ “Khúc quê” của tôi, thiền sư nói cứ y như ở giữa lòng xứ sở quê nhà, chẳng văn hoa bóng bẩy, chẳng triết lý cao siêu, cứ tuồn tuột từ gan ruột trôi ra, như chính thiền sư là người mẹ, người chị, người em ra giếng gánh nước đêm giao thừa vậy.
Đối với văn hóa Việt Nam, hình ảnh của ngọn lửa đi đôi với hình ảnh gánh nước. Gánh nước đêm ba mươi. Có nhiều địa phương ở Việt Nam, đêm ba mươi gánh nước là một nghi lễ. Dù cho mấy cái chum, cái lu trong nhà đầy rồi thì mình vẫn đi gánh nước ở giếng như thường. Và đêm ba mươi người ta gặp nhau ngoài giếng, gánh một gánh nước cuối cùng, và người ta kể chuyện cho nhau nghe. Người ta nói hy vọng của nhau đối với một năm mới tới. Do đó gánh nước đêm ba mươi trở thành một đề tài thi ca. Nếu chúng ta sinh ra trong thời đại mới này thì chúng ta nên biết là ở trong nhà ngày xưa, có người em gái, người mẹ đi ra giếng gánh nước cho đầy chum, đầy lu, đầy vại. Đó là chuyện phải làm trong ngày tết… Lu nước (đầy), chum nước (đầy) tượng trưng cho những tiện nghi vật chất, nếu trong nhà đầy nước thì có nghĩa là chúng ta có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, chúng ta có lương bổng đường hoàng. Điều này người nào cũng làm được. Không cần phải là người giàu. Bất cứ người nào dù nghèo cũng có thể lấy thùng đi gánh một đôi nước về. Đó là điều bình đẳng. Và giếng trong làng đóng vai một vị Đại Bồ Tát cung cấp nước cho tất cả dân ở trong làng mà không kỳ thị. Người giàu cũng nước đó. Người nghèo cũng nước đó. Vậy nên nhìn vào cái giếng chúng ta có thể thấy đó là một vị Bồ Tát không kỳ thị, không phân biệt, là một nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho làng…
Theo dõi cuộc bình thơ đón giao thừa của Thiền sư Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai, tôi không thể ngăn được cảm xúc. Bài thơ tôi viết cho mẹ mình, chị mình. Và, cho cả tôi nữa. Mẹ tôi lúc sinh thời bảo rằng: Gánh nước đêm giao thừa là một mỹ tục có ý nghĩa chúc phúc cho một năm mới đủ đầy như nước đổ vào nhà. Bây giờ thì tất cả đã là người xưa. Đêm giao thừa tôi lại chạy ra giếng, cúi đầu vào giếng gọi tên mình thật to. Từ lòng giếng sâu tận đáy, tiếng hồi âm lại cho tôi là cả một thiên đường tuổi thơ. Trong cái thiên đường đó, tôi mãi là thằng Út nhỏ nhoi cầm đèn soi đường chạy trước cho mẹ gánh nước bao lần đêm giao thừa. Trong cái thiên đường đó, nhiều khi tôi nhận ra mình giông giống nhân vật cậu bé đứng bên bậu cửa trông ra đường ngắm mưa, đẹp như suối trong, như ánh sáng trong sách “Nẻo về của ý” của thiền sư...
NGUYỄN NHÃ TIÊN