Vương quốc Chămpa được thành lập vào cuối thế kỷ 2, nằm trên ngã tư giữa các nước Ấn Độ, Java và Trung Hoa, từng là một trung tâm giao thương sầm uất ở vùng Đông Nam Á. Người Chăm được biết đến trong lịch sử là những thương nhân, thủy thủ, chiến binh, thợ thủ công thiện nghệ và kiến trúc sư tài năng.
James Blake Wiener của trang mạng Từ điển Bách khoa Cổ sử (Ancient History Encyclopedia) trao đổi với Trần Kỳ Phương - một chuyên gia lịch sử văn hóa Chămpa về những điểm độc đáo của nghệ thuật Chămpa.
J.Wiener: Chào ông Trần Kỳ Phương. Xin ông cho biết, người Chăm đã tiếp nhận ảnh hưởng nghệ thuật từ Java, Cambodia và Ấn Độ, vậy những đặc điểm nào của nghệ thuật và kiến trúc Chămpa có thể được nêu lên để so sánh với các nền nghệ thuật láng giềng?
Trần Kỳ Phương: Nghiên cứu những đặc điểm địa lý của Vương quốc Chămpa và của các nước láng giềng cho phép chúng ta hiểu được những khía cạnh độc đáo của nghệ thuật Chămpa. Vương quốc Chămpa tọa lạc trên đại lộ hải thương gọi là “Con đường Tơ lụa trên biển” và Chămpa cũng nằm giữa hai nền văn minh chính của châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa. Vương quốc này đã tích cực tham gia hệ thống hải thương quốc tế từ thế kỷ 2 trở đi. Chămpa đã tạo được những mối quan hệ mật thiết với các vương quốc ở Đông Nam Á lục địa và với các đế chế hải đảo thuộc Indonesia hiện nay. Kết quả là, nghệ thuật Chămpa đã dung hòa, tiếp biến những xu hướng nghệ thuật đa dạng từ Đông Nam Á, Ấn Độ và Trung Hoa.
Nền kiến trúc tôn giáo của Chămpa không có truyền thống sử dụng rộng rãi vật liệu đá trong xây dựng, trái hẳn với truyền thống kiến trúc của các nước láng giềng. Công nghệ xây dựng Chămpa nổi bật với việc sử dụng gạch, trong khi Khmer và Java thì nghiêng hẳn về công nghệ sử dụng đá - được minh chứng bởi các ngôi đền Angkor ở Cambodia và Borobodur hoặc Prambanam ở Indonesia. Sự khác biệt về vật liệu xây dựng hàm ý những khác biệt về công nghệ cấu trúc cũng như khác biệt về việc sử dụng nguồn nhân lực trong các dự án xây dựng.
Công nghệ của Khmer và Java là công nghệ của những xã hội nông nghiệp, tọa lạc trên những đồng bằng rộng lớn như của Cambodia hoặc những bình nguyên giàu đất khoáng, đất nham thạch như đảo Java. Trong những xã hội nông nghiệp này, vua chúa có khả năng điều động dễ dàng một lực lượng nhân công phong phú trong một thời hạn dài. Họ có thể xử dụng nguồn nhân lực này để xây dựng đền đài bằng sa thạch hoặc các loại đá khác. Ngược lại, người Chămpa nghiêng hẳn về nền kinh tế hải thương. Trong những xã hội thương mãi, khả năng điều động nguồn nhân lực cho nhu cầu xây dựng các công trình tôn giáo trọng yếu đều bị hạn chế.
Xây dựng một ngôi đền bằng đá đòi hỏi sự tập trung các nguồn nhân lực để đục cắt, vận chuyển đá và cho tất cả công đoạn khác, như chạm khắc của chính một cấu trúc đá. Trong khi, để xây dựng một ngôi đền gạch không yêu cầu một nguồn nhân lực hùng hậu như thế. Một số lượng nhân công khiêm tốn hơn, được tận dụng trong một thời hạn nhất định, có khả năng kiến tạo những ngôi đền gạch có kích cỡ bề thế như nhóm tháp Dương Long ở Bình Định, là một trong những ngôi đền Hindu bằng gạch cao nhất ở Đông Nam Á (43 mét).
Công nghệ xây dựng đền - tháp Chămpa rất diệu kỳ. Gạch được nung ở nhiệt độ khoảng 850 độ C, nên dễ hoàn tất. Để kết những viên gạch lại với nhau, người Chăm dùng một loại nhựa cây gọi là dầu rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb, loại cây này được trồng thành rừng phổ biến ở Trung Việt Nam và ở bán đảo Đông Dương. Người Chăm cũng rất kinh nghiệm trong việc kết hợp giữa gạch và sa thạch trên cùng một công trình. Ở một số ngôi đền, hai thứ vật liệu này vẫn còn kết chặt qua hàng ngàn năm! Sau khi đã hoàn tất việc xây dựng cho ngôi đền, những nhà điêu khắc chạm trổ trực tiếp các kiểu thức hoa văn vào tường bên ngoài của tháp gạch. Những kiểu thức hoa văn trang trí độc đáo được sáng tạo qua các thời kỳ đã hình thành những phong cách nghệ thuật khác nhau từ thế kỷ 7 - 16.
Mặc dù nghệ thuật Chămpa và nghệ thuật Đông Nam Á đều được tiếp biến từ những nền nghệ thuật của Ấn Độ, nhưng mỗi nền văn minh Đông Nam Á đều sở hữu “ngữ pháp” và “từ vựng” riêng để diễn đạt cá tính nghệ thuật và tư chất thẩm mỹ của riêng họ. Thẩm mỹ tộc người của cư dân bản địa đã tinh lọc nghệ thuật Hindu và Phật giáo đến từ Ấn Độ và đúc kết nên bộ “từ vựng” nghệ thuật đặc thù cũng như cá tính cảm thụ nghệ thuật riêng cho mỗi nền nghệ thuật của Đông Nam Á.
J.Wiener: Ngoài những tác phẩm điêu khắc đá và hợp kim, chúng ta có biết gì về các loại hình nghệ thuật khác của Chămpa như hội họa, kim hoàn, đan, dệt, đồ gốm, hoặc ngay cả thư pháp?
Trần Kỳ Phương: Thời gian và chiến tranh, đặc biệt các cuộc chiến trong thế kỷ vừa qua là nguyên nhân chính đã hủy hoại các nghệ phẩm Chămpa. Ngoại trừ kiến trúc tôn giáo, chúng ta chỉ có thể nhận biết nghệ thuật trang sức, dệt vải… đã được chạm khắc chi tiết trên các tác phẩm điêu khắc hiện tồn. Vào năm 1903, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một bộ trang sức bằng vàng bao gồm mũ, miễn, hoa tai, vòng đeo cổ, vòng đeo tay, đeo chân... để trang điểm cho một ngẫu tượng của thần Siva tại Mỹ Sơn.
Hiện đã có khoảng hơn 200 bi ký Chăm được phát hiện. Những bi ký này có niên đại từ thế kỷ 5 - 15 và chúng cung cấp những chi tiết lịch sử thú vị bằng cả tiếng Chăm cổ lẫn tiếng Phạn. Mặc dù phong cách của văn tự đã thay đổi và phát triển qua từng thời kỳ, chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được rất nhiều thông tin về chúng. Các nhà khảo cổ học cũng đã phát lộ được nhiều lò gốm Chăm tại tiểu quốc Vijaya xưa (tỉnh Bình Định). Những lò gốm này được xác định niên đại từ thế kỷ 13 - 15.
Ngày nay, cộng đồng sắc tộc Chăm sinh sống ở Nam Trung Bộ vẫn sản xuất vải dệt cổ truyền với nhiều kiểu thức hoa văn độc đáo và các loại gốm thô làm theo kiểu không có bàn xoay. Họ cũng bảo tồn được các thể loại nghệ thuật truyền thống liên quan đến nghi thức tôn giáo và lễ hội. Rất nhiều văn bản bằng tiếng Chăm viết trên lá cọ có niên đại từ thế kỷ 17 - 18 vẫn còn được bảo quản tốt.
J.Wiener: Tại sao quần thể kiến trúc Mỹ Sơn được tạo dựng và tại sao những triều vua kế tục lại ưa chuộng Mỹ Sơn, bảo trợ cho những ngôi đền tuyệt đẹp của di tích này?
Trần Kỳ Phương: Mỹ Sơn là thánh địa hoàng gia nơi vị thần - vua (Devaraja) - một hóa thân của thần Siva - đấng bảo hộ các vương triều Chămpa được thờ phụng. Thánh địa này được khởi dựng dưới triều vua Bhadravarman I hay Phạm Hồ Đạt (380 - 413) vào khoảng cuối thế kỷ 4, trong một thung lũng kín đáo, dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata (Đại sơn thần), được đề cập trong văn bia của đức vua. Ngày xưa, thương thuyền đi ven biển thấy ngọn núi này như một chỉ dấu để biết đó là vùng Đại Chiêm hải khẩu hay cảng thị Hội An - trung tâm thương mại chính của tiểu quốc Amaravati.
Mỹ Sơn là di tích kiến trúc tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất của Chămpa. Di tích này lưu giữ những kiến thức quan trọng về văn hóa nghệ thuật Chăm, phản ảnh lịch sử kinh tế và xã hội của Vương quốc Chămpa. Di tích này đã hấp dẫn nhiều thế hệ học giả kể từ khi nó được tái phát hiện bởi các học giả người Pháp vào cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, những hiểu biết của chúng tôi về di tích này vẫn còn hạn chế vì thiếu những cuộc khai quật khảo cổ học đầy đủ. Chúng tôi trông đợi những cuộc khai quật đầy hứa hẹn trong tương lai, hy vọng sẽ phát quật được nhiều cổ vật thú vị và thúc đẩy những nỗ lực để bảo tồn di tích này.