Tôi vẫn còn nhớ mãi ngày Tam Kỳ vẫn còn là một phố huyện. Lúc bấy giờ, má tôi lâu lâu cho tôi đi theo lên phố chơi. Quãng đường dài mấy chục cây số, tôi ngồi trên poóc-ba-ga xe đạp má chở hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ, có bận sang hơn, bu được xe lam thì thời gian được rút ngắn lại còn non phân nửa. Gọi là thị xã nhưng ngày ấy Tam Kỳ gần như chỉ có con đường Phan Châu Trinh là ra dáng phố với hai hàng phượng vĩ nở đỏ rực ven đường mỗi dịp hè về, các cửa hàng và mấy xưởng cơ khí nhỏ làm lốp xe, máy xay bột, bồ cào sắt và lò nấu trấu...
Sầm uất nhất phải nói là chợ Mai, nơi bán đủ thứ mặt hàng mà một đứa trẻ như tôi thích nhất hai mặt hàng là...bún gân và chè no. Đó là hai thứ đủ để làm nên một câu chuyện mới lạ và gây được sự ganh tị cho bạn bè cùng trang lứa ở quê tôi. Tất cả hình ảnh đó dần thay đổi theo sự phát triển của phố nhưng ký ức của tôi có một hình ảnh tôi khó mà quên được, đó là bà cụ với dáng đi lom khom, đội chiếc nón cời, một tay xách chiếc ấm nhôm, một tay cầm hai cái bát, khẽ khàng cất tiếng rao: “Ai nước chè nóng... hông ?”. Tôi thương cụ bằng với tình thương một bà cụ khác ngồi trước gian hàng chỉ vỏn vẹn vài lá trầu, mấy trái cau và một ít vôi ở góc kia và cũng gần giống với tình thương tôi dành cho bà nội tôi ở nhà. Ở quê tôi, chỉ cần thò tay ra cửa sổ thì đã có thể bứt một mớ lá chè xanh đủ cho một ấm chè đậm đặc với sắc nước vàng ánh xanh. Sau này không còn mè nheo theo má đi phố chợ Tam Kỳ nữa. Rồi lớn lên, đi làm, thi thoảng tôi có ghé lại chợ Mai và bắt gặp bà cụ với cái lưng khòm khòm, đội nón cời, một tay xách chiếc ấm nhôm...
Chuyện áo cơm ở nơi phố thị người xe tấp nập ngược xuôi khiến tôi vô tình đến vô tâm đối với bà cụ...
Dù trở thành “công dân” của TP. Tam Kỳ được gần chục năm, một hôm tôi mới “sực nhớ” tới bà cụ bán nước chè ở chợ Mai, khi cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống bon chen thường ngày. Tôi ghé đến chợ Mai. Cụ vẫn vậy, cho dù lưng có còng hơn. Không đủ sức để cất tiếng rao “Ai nước chè nóng... hông ?”, cụ chỉ ngồi một chỗ cạnh ngã ba chứ không vào trong chợ đông người. Một cảm xúc nôn nao khó tả trào dâng trong tôi khi gặp lại bà cụ. Như có tiếng gọi từ phía tuổi thơ tôi đồng vọng lại. Đã mấy chục năm trôi qua, tôi vẫn chưa uống cho cụ một bát nước chè... Mỗi sáng tôi chở các con đến trường rồi đón xe buýt đến cơ quan, khi ngang qua chỗ cụ ngồi, tôi cũng muốn dừng xe uống một bát nước, nói chuyện với cụ vài câu nhưng vì tất bật với công việc nên... thôi! Sáng hôm ấy, mặc dù bận nhiều việc nhưng tôi gạt bỏ hết để làm cái việc mà gần ba chục năm nay tôi chưa làm được, đó là dừng lại gần chợ Mai, uống một bát nước chè xanh của bà cụ...
Hỏi chuyên, tôi mới hay, bà cụ quê ở Tiên Thọ - Tiên Phước. Có chồng vừa đám hỏi xong thì chồng đi tập kết. Từ đó, không về. Cụ ở vậy với một người cháu gọi cụ bằng cô. Hàng ngày, cụ nấu nước chè xanh đi bán. Trước đây, một đồng một bát. Bây giờ một nghìn đồng một bát. Tăng những 1.000 lần nhưng số tiền ấy lại không đủ mua một quả ớt tươi... nên đời bà cụ mãi lam lũ! Bất giác tôi nhận ra thân phận con người thật bé nhỏ, không hơn một hạt cát là bao. Nhỏ nhoi là vậy. Nhưng không có những hạt cát thì làm sao có được bãi cát trắng phau bên bờ biển khiến bao người phải xao lòng trước vẻ đẹp hoang sơ? Tôi lẩn thẩn nghĩ. Và tôi thấy mình cũng chỉ là một hạt cát nhỏ nhoi giữa cuộc đời...
LÊ TRƯỜNG AN