Tuổi 19, sau những ngày trên ghế nhà trường, tôi tình nguyện viết đơn nhập ngũ. Trong thời gian này, đất nước ta bước vào năm tháng thăng trầm với những khó khăn kinh tế, giặc ngoại xâm đánh chiếm phía Bắc của Tổ quốc. Đến tháng 4.1980, tôi được đứng vào hàng ngũ quân đội, trở thành cô tân binh mặc trên mình chiếc áo màu xanh mà mình hằng mong ước. Sau 3 tháng huấn luyện đầy vất vả dưới cái nắng chang chang trên đất lửa Quảng Bình, đơn vị tôi được điều động sang đất bạn Lào.
Sau một ngày đêm, xe đưa chúng tôi đến đơn vị nhận quân, đó là Sư đoàn 384. Rồi chúng tôi bịn rịn chia tay, mỗi đứa được phân công về từng đơn vị khác nhau. Tôi được biên chế về C11 trực thuộc Trung đoàn 509. Lúc bấy giờ đơn vị nằm sâu trong núi với nhiệm vụ khai thác đá để phục vụ các đơn vị đổ cầu, đổ mặt đường. Tuy vất vả nhưng chúng tôi thấy rất tự hào vì là lính Binh đoàn Trường Sơn.
Tôi ở đơn vị C11 được mấy tháng thì đơn vị cử đi học chuyên môn ở trung đoàn bộ. Sau khi kết thúc khóa học, được phân về công tác tại tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 38 thuộc Trung đoàn 509. Công việc của tôi là làm nhân viên thống kê, nắm bắt tình hình thi công của các đơn vị, tổng hợp rồi báo cáo cho trung đoàn.
Đơn vị đóng quân bên dòng sông Sê Pôn, quanh năm nước chảy trong xanh. Ở tiểu đoàn bộ, chỉ có hai nữ. Chúng tôi được các anh làm cho một chiếc cầu tre nhỏ khuất sau lùm cây le để tắm giặt cho tiện. Mỗi lần đi tắm phải đi cả hai đứa, phần vì sợ ma, phần bị các anh con trai trêu chọc.
Rồi tết đến, hoa ban nở trắng rừng lòng nao nao nhớ mẹ, chắc mẹ đang tất bật với mấy sào ruộng khoán để kịp lo tết, nhớ mấy đứa em xúng xính áo hoa, nhớ nồi bánh chưng to đùng bố nấu ăn đến rằm mới hết. Tết ở đơn vị cũng có đầy đủ bánh chưng, thịt lợn… nhưng một số anh em về tết, còn lại chỉ vài chục người nên không khí có phần trầm lắng hơn. Các anh bày ra nhiều trò để chơi như đánh bài quẹt nhọ nồi, đá bóng…; chỉ có hai chị em nữ thôi nên cũng buồn. Đôi lúc cũng xin các anh cho đánh bài. Các anh đánh bài toàn ăn gian nên hai chị em tôi bị quẹt nhọ nồi đầy mặt như mọc râu vậy. Giờ nghĩ lại thấy hay hay.
Mùa mưa, chúng tôi thay nhau đi hái rau tàu bay, đào măng le về làm thực phẩm. Ở đơn vị, thực phẩm mùa mưa khan hiếm vì vận chuyển bên nước ta sang Lào đường đi khó khăn. Le ở đây mọc thành rừng, đi mỏi chân không hết. Măng ở đây nhiều lắm, sau một đêm mưa nhú lên như cắm chông. Chỉ sợ muỗi và vắt cắn. Muỗi thì không sao, chúng tôi mặc áo dài tay, mặt che kín là được. Còn vắt, eo ôi sợ lắm. Có lần bị vắt cắn vào chân chảy máu, sợ quá không dám bắt, nhờ mấy anh bắt hộ. Có anh bắt xong còn khen, chân cẳng lính cầu đường gì mà trắng thế. Ngượng ơi là ngượng! Bấy giờ tôi mới sang tuổi 20 đang bồng bột trẻ con nên cứ hay xấu hổ, bẽn lẽn, làm việc gì cũng e ngại, được thể, các anh cứ trêu nhiều hơn. Vui nhất là những đêm sinh hoạt đơn vị. Lời ca tiếng hát của các anh ngân vang trong đêm dội vào vách núi nghe như có người nhại lại. Rồi những câu chuyện tếu được các anh thêu dệt kể râm ran. Những câu trêu đùa vui vẻ xua tan không khí thanh vắng nơi núi rừng. Đêm về, ở núi rừng yên tĩnh, bóng đêm tràn ngập không có ánh điện, ánh đèn. Thỉnh thoảng có tiếng cú mèo ăn đêm kêu lên thảng thốt nghe hãi hùng. Những lúc như thế hai chị em chúng tôi phải sang nằm chung giường, đêm không ngủ kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Quê tôi ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa có đồng ruộng phì nhiêu, màu mỡ. Tôi ước sau này về sẽ trở thành cô nông dân đảm đang trên cánh đồng năm tấn, làm ra thật nhiều thóc. Thự - bạn cùng phòng quê ở Thiệu Hóa bảo tôi: “Sao mày không ước đi làm kỹ sư, bác sĩ cho cao sang”. Còn nó, nó bảo chẳng cần gì cả, chỉ cần lấy tấm chồng về đấm lưng cho, nó có cái tật đau lưng. Rồi hai đứa ôm nhau cười rúc rích, cho giấc ngủ được sâu hơn.
Tôi làm nhân viên thống kê, mọi con số báo cáo của các đại đội được tổng hợp thông qua anh trưởng bộ phận tham mưu duyệt rồi báo cáo cho trung đoàn về các thông số vật liệu, nhân công, máy móc sử dụng trong ngày. Có đợt, do bản đốt rẫy, dây thông tin bị cháy mất liên lạc, phải đi bộ hàng chục cây số lên trung đoàn bộ để báo cáo. Con đường lên trung đoàn bộ gập ghềnh. Đường đang mùa thi công nên đất bụi mù mịt. Nhìn anh em đồng đội tay cuốc, tay xẻng, mồ hôi nhễ nhại mà thương.
Tuy là lính gián tiếp, nhưng những đợt cao điểm mùa thi công chúng tôi cũng được điều động ra công trường. Là nữ nên các anh nhường cho công việc nhẹ nhất là xúc cát. Có hôm thử vác mấy hòn đá để xây móng cầu, nặng quá thả bịch, hòn đá lăn vào chân chảy máu, đau mất mấy ngày, bị các anh mắng cho: “Yếu mà còn đòi ra nắng”.
Giờ ngẫm lại, thấy cuộc đời lính thật vất vả, thiếu thốn trăm bề. Các anh con trai còn đỡ chứ phụ nữ chúng tôi thật phức tạp về sinh hoạt, biết bao thứ cần thiết cho người phụ nữ mà ở đây không thể đáp ứng được. Nhưng bù lại, trong lòng mỗi người lính luôn tự hào vì đã đem tuổi thanh xuân của mình hiến dâng cho con đường Trường Sơn một thời huyền thoại. Và càng thấy tự hào hơn về những thế hệ cha anh đi mở đường Trường Sơn trong chiến tranh mới hào hùng biết bao.
Tháng 3.1984, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ, bàn giao tuyến đường cho nước bạn Lào. Chúng tôi bồi hồi, lưu luyến chia tay, người chuyển đi đơn vị khác, người xuất ngũ và tôi về với quê hương.
Sau khi rời quân ngũ, chúng tôi trở về cuộc sống đời thường. Người thi vào các trường đại học trở thành kỹ sư, bác sĩ, người làm công nhân… Còn tôi trở về miền quê yêu dấu, về với ruộng đồng như đã hằng mong ước. Cuộc sống quê nhà lăn lộn đồng áng vất vả càng làm cho tôi thấu hiểu Trường Sơn là nơi đã tôi luyện mình thành con người vững vàng trong cuộc sống, trong lao động. Trường Sơn đã để lại cho tôi dấu yêu trong cuộc đời, để lại tình cảm đồng chí, động đội thiêng liêng nhất. Hình ảnh những đồng chí, đồng đội năm xưa, hình ảnh những tuyến đường Trường Sơn tây mãi mãi in đậm trong ký ức của tôi - người lính Trường Sơn.