Chuyện xảy ra ở huyện Nam Trà My. Khi UBND huyện thu hồi đất và bồi thường thiệt hại về đất cho ông Phạm Minh Hùng xong, ông lập hợp đồng mua bán giả tạo để bà Nguyễn Thị Kim Doanh đi kiện...
Ngày 25.3.2005, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 1768/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch xây dựng đô thị trung tâm huyện Nam Trà My. Theo đó, UBND huyện Nam Trà My đã thu hồi 28.102m2 đất trồng rừng của hộ ông Phạm Minh Hùng (thôn 1, xã Trà Mai) và bồi thường thiệt hại cho ông với số tiền 281.854.000đ. Trong đó, giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) là 97.278.000đ, cây lưu niên 184.576.000đ. Ông Hùng đã nhận tiền xong và bàn giao đất cho UBND huyện Nam Trà My phân lô giao đất cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân tái định cư xây dựng nhà ở ổn định từ năm 2006 đến nay.
Thế nhưng đầu năm 2010, ông Phạm Minh Hùng lại viết 2 giấy sang nhượng đất vườn rẫy cho bà Nguyễn Thị Kim Doanh đối với diện tích 28.102m2 đất đã được Nhà nước thu hồi và bồi thường thiệt hại cho ông. Giấy viết tay thứ nhất ghi ngày 14.01, năm nào không rõ và sửa lại năm 2006, giá trị sang nhượng đất là 10 triệu đồng. Giấy viết tay thứ hai ghi ngày 6.2, năm nào không rõ và sửa lại năm 2006, giá trị sang nhượng đất là 20 triệu đồng. Mặc dù 2 giấy sang nhượng đất vườn rẫy giữa ông Hùng với bà Doanh thực hiện theo thủ tục viết tay có ghi tứ cận thửa đất, nhưng không ghi diện tích và chiều dài các cạnh của thửa đất, không lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ theo mẫu quy định của pháp luật về đất đai, không nêu rõ nguồn gốc đất, bàn giao giấy tờ về quyền sử dụng đất, không thực hiện việc công chứng và đăng ký kê khai QSDĐ với cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai ở địa phương.
Ông Hùng viết giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Doanh ghi năm 2000 và sửa lại năm 2006. Ảnh: P.T |
Điều quan trọng hơn, đất đai của hộ ông Phạm Minh Hùng đã được Nhà nước thu hồi, bồi thường thiệt hại. Ông Hùng đã nhận tiền và bàn giao đất cho Nhà nước thì hiển nhiên quyền quản lý, sử dụng đất thuộc về Nhà nước. Thế nhưng, ông Hùng lại viết giấy chuyển nhượng QSDĐ đất đã bị thu hồi cho bà Nguyễn Thị Kim Doanh để bà Doanh đi kiện đòi bồi thường thiệt hại.
Vụ án hành chính này cho thấy, pháp luật vẫn còn lỗ hổng, chưa có quy định xử lý rõ ràng về hành vi giả tạo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ để đi kiện. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần sớm kiến nghị Chính phủ quy định chế tài xử lý các hành vi lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi trái pháp luật. |
Ngoài ra, ông Hùng còn viết giấy tay xác nhận ghi ngày 15.2.2000: “Tôi Phạm Minh Hùng cùng với bà Nguyễn Thị Kim Doanh mua chung đất của ông Đinh Văn Hai, ông Nguyễn Cao Nam và bà Hồ Thị Hồng có nội dung như giấy sang nhượng đất vườn rẫy nêu trên và ông Hùng, bà Doanh cùng ký tên xác nhận cho chính mình”. Hơn nữa, đất đai là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhưng ông Hùng đơn phương chuyển nhượng QSDĐ chung của vợ chồng ông cho bà Doanh, nhằm tạo điều kiện bà Doanh đi kiện yêu cầu UBND huyện Nam Trà My bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất là không đúng theo quy định tại Điều 108, 109 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ông Phạm Minh Hùng đã khai nhận: Các giấy tờ sang nhượng QSDĐ giữa ông với bà Doanh được lập năm 2010, nhưng ghi năm 2000 (có giấy sửa lại năm 2006). Việc lập giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất là nhằm hợp thức thời gian để bà Doanh khiếu nại và khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại, tái định cư.
Từ thực tế trên, vừa qua, TAND huyện Nam Trà My đã kết luận và ra Bản án số 02/2013/HCST bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của đại diện hộ bà Nguyễn Thị Kim Doanh; buộc bà Doanh phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm. Và ngày 14.11.2013, TAND tỉnh Quảng Nam xét xử lại vụ án này theo thủ tục phúc thẩm, bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim Doanh; giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của TAND huyện Nam Trà My.
THÂN PHƯỚC THÀNH