Lại một sự cấp tiến, đầy tính nhân văn và cũng rất có ý nghĩa thời sự đối với xã hội hóa giáo dục nữa, đó là ông đã chủ trương lấy hội buôn nuôi trường học (chứ không phải lấy trường học để nuôi doanh nghiệp!) và học để nâng cao dân trí, để lập thân, lập nghiệp và phụng sự đất nước bằng chính sở học của mình, chứ không phải chỉ chăm vào mỗi mục đích đi thi lấy bằng để tiến thân trên hoạn lộ.
|
Các hoạt động cải cách về mặt xã hội như bài trừ hủ tục, ăn ở hợp vệ sinh… cũng cho thấy, như cách nói ngày nay thì hơn 100 năm trước, ông đã làm cho Phú Lâm thực sự là một làng văn hóa điển hình, đã thực hiện tốt đời sống văn hóa cơ sở.
Về kinh tế, việc ông vận động nhân dân phát triển các ngành nghề thủ công, dùng hàng nội hóa, thực hành tiết kiệm, nhất là vấn đề lập Thương hội, Nông đoàn, Hợp xã cũng nhằm nâng đỡ người nghèo, nâng cao vị trí của người lao động, hạn chế sự bóc lột của địa chủ, cường hào, làm cho giá trị con người được tiến dần lên sự bình đẳng trong cuộc sống.
Lê Cơ đã làm chuyển biến mạnh mẽ kết cấu hạ tầng tâm lý của người nông dân: từ tự ti với thân phận của người dân nghèo suốt đời cày rẻ cấy thuê đến ý thức hợp tác làm ăn tập thể, không phải cạnh tranh mạnh được yếu thua mà là “dĩ nông hợp quần, dĩ thương hợp quần”, hợp tác, tương trợ nhau trong công việc làm ăn (thời 9 năm kháng chiến chống Pháp chúng ta cũng thực hiện chính hình thức tổ chức sản xuất tập thể tương tự như vậy với tên gọi Nông đoàn tập thể và về sau này là hợp tác xã); từ độc canh làm ruộng, làm rừng sang mở mang thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (ngày nay gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế); từ chỗ chỉ biết có mỗi thứ chữ Nho là chữ Thánh hiền, sang học chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Nhật; từ chỗ chỉ biết bên ngoài hầu như có mỗi văn minh Trung Hoa đã chuyển sang tiếp thu trào lưu tiến bộ của văn minh phương Tây, biết đến học thuyết dân chủ, nhân quyền của Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Lư Thoa (Rousseau); cho đến cả lối sống hàng ngày như ăn mặc, búi tóc cũng đều sửa đổi. Chỉ mỗi việc cắt búi tóc củ hành thôi cũng đã là một cuộc cách mạng về ý thức, bởi đấy vốn được xem là biểu hiện “quốc hồn quốc túy”, là nơi “bất cảm hủy thương”.
Tìm hiểu những hoạt động cải cách của Lê Cơ, một mặt chúng ta hiểu được những điểm chủ chốt trong lý thuyết Duy tân của Phan Châu Trinh và những nhà duy tân cải cách đương thời được cụ thể hóa sinh động trong đời sống thực tế ở một làng quê, mặt khác cũng cho thấy những nét độc đáo trong cách nghĩ cách làm của Lê Cơ đã bổ sung như thế nào cho chủ thuyết đó.
Và một điểm nữa, cũng qua hoạt động tuyên truyền của cả hai phái Duy tân và Duy Tân hội tại Phú Lâm cùng với những gì Lê Cơ đã tổ chức thực hiện ở đây như dạy quân sự học đường, lập trường Dục Thanh, cho thấy ông là một nhà duy tân đặc sắc nhưng vẫn tán thành việc chuẩn bị cho bạo động.
Có thể thấy, ngoài Phan Châu Trinh là người có chủ thuyết hẳn hoi nên dứt khoát cho rằng trong tình cảnh hiện thời phải bất bạo động - thực chất Phan Châu Trinh chỉ chống bạo động non, chứ ông không phản đối việc chuẩn bị cho bạo động về lâu dài khi có điều kiện, tức là khi đã khai thông được dân trí, chấn hưng được dân khí, bồi dưỡng được dân sinh. Lúc ấy, như ông từng phát biểu, rằng “đông tay vỗ nên bộp” mà “mưu tính đến việc khác”. Với Lê Cơ và nhiều sĩ phu đương thời, họ chỉ “vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn”, miễn sao đánh đuổi được giặc Pháp để giành lại độc lập cho nước nhà. Hơn nữa, hoạt động công khai với những việc làm ôn hòa là cải cách về văn hóa - xã hội nhưng chế độ thực dân vẫn thẳng tay đàn áp, buộc họ không còn lựa chọn nào khác là phải chuyển sang bạo động để may ra còn có thể cứu vớt trong muôn một. Sự thất bại của Lê Cơ và các đồng chí của ông cả trong hoạt động cải cách và mưu khởi nghĩa đều nằm trong sự thất bại chung của đường lối cứu nước đương thời, mà nguyên nhân căn bản là thiếu một hệ tư tưởng tiên tiến dẫn đường để có được một biện pháp đấu tranh thích hợp: kết hợp bạo lực cách mạng (chứ không chỉ đơn thuần là bạo động) với tuyên truyền về dân chủ, định hướng cho xã hội tương lai, phải chuẩn bị công phu, có một đảng vững mạnh và biết chớp thời cơ đúng lúc mới có thể thành công trong giành, giữ và xây dựng chính quyền mới.
Qua tìm hiểu hoạt động của Lê Cơ và những sĩ phu cùng thời, nhất là nội dung cuộc họp đầu xuân tại trường Phú Lâm và những diễn biến sau đó đã gợi mở cho chúng ta nhiều điểm đặc sắc trong cuộc vận động chống sưu thuế lúc bấy giờ. Đó không chỉ là một sự tức nước vỡ bờ bình thường, là một sự tự phát chỉ từ một đám giỗ, mà là một kế hoạch bài bản, thể hiện được tài tổ chức, trực tiếp lãnh đạo của các sĩ phu không trong hàng đại khoa. Chúng ta cũng sẽ nhận thấy điều này ở cuộc vận động khởi nghĩa trong những năm 1911 - 1916 mà Lê Cơ là một yếu nhân.
Cuộc đời của Lê Cơ quả thật oai hùng. Ở ông toát lên một khí phách bao gồm cả đởm lực, phách lực và thế lực, như Huỳnh Thúc Kháng từng nhận xét: “Về khí phách và đởm lực, Lê Cơ chẳng kém Phan Châu Trinh”. Chính cái diện mạo quắc thước, cái uy tín vươn cành bén rễ trong nhân dân đã tạo nên khí phách và đởm lực của Lê Cơ. Với khí phách đó, Lê Cơ đã sống bất khuất làm cho kẻ thù phải kiêng nể. Với khí phách đó, Lê Cơ đã hiên ngang dẫn dắt công cuộc cải cách ở làng quê Phú Lâm. Với khí phách đó, đối với quan lại cấp trên ông không hề nhún nhường mà còn dám tuyên chiến với cả một bộ máy quan lại, cường hào ác bá; đối với dân xã thì gần gũi chở che. Và cũng với khí phách đó, Lê Cơ đã anh dũng “ra đi” trong năm 1916 mà không hề thẹn với những đồng chí của mình. Đấy cũng chính là nguyên do vì sao sau khi bắt Lê Cơ đày Lao Bảo, thực dân Pháp và quan lại Nam triều ở địa phương cấm người dân không được nhắc đến ông, dẫu chỉ là một cái tên!
Dù mức độ tôn vinh có khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu hậu thế đều thống nhất ở chỗ: Lê Cơ là một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, đã có những đóng góp trong phong trào yêu nước, chống Pháp đầu thế kỷ XX.
“Ôn cố nhi tri tân”! Trong công cuộc xây dựng một xã hội mới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng ta lại tưởng nhớ và quý trọng biết bao đối với Lê Cơ - một con người đầy nhiệt huyết, dám nghĩ dám làm chỉ với một cái tâm trong sáng “Túng bất năng hành chi thiên hạ, do khả nghiệm thi nhất hương”, nghĩa là: Dẫu không làm được việc lớn trong thiên hạ thì cũng thí nghiệm trong một làng. Nhưng những gì ông đã làm đâu chỉ có ý nghĩa trong một làng và trong một giai đoạn lịch sử của những năm đầu thế kỷ XX.
PGS-TS. Ngô Văn Minh