Lính xứ Thanh nặng tình xứ Quảng

THẢO NGUYÊN 29/07/2017 07:15

Trong gần 10 năm nay, ông Nguyễn Hữu Ngoãn thường xuyên trở lại Quảng Nam, như người trong nhà của mấy chị em con má Trọng. Ông vui lắm, rồi nói giọng “Quảng Nôm”, và cuộc trở về xứ Quảng của ông thấm đẫm ký ức một thời lính đặc công…

Ông Nguyễn Hữu Ngoãn (hàng ngồi, bên phải) cùng các chiến sĩ Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn trong ngày giải phóng Quảng Nam - Đà Nẵng (29.3.1975).
Ông Nguyễn Hữu Ngoãn (hàng ngồi, bên phải) cùng các chiến sĩ Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn trong ngày giải phóng Quảng Nam - Đà Nẵng (29.3.1975).

1. Trong chuyến đi công tác Thanh Hóa, tôi tìm gặp ông tại nhà riêng ở thôn Minh Hải, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc. Ngôi nhà nhỏ treo trang trọng những thành tích của ông trong thời chiến cũng như thời bình, ông bảo đó là “tài sản” quý của cuộc đời mình. Còn đó những vết thương trên thân thể nhưng trong ông luôn toát lên phong cách nhanh nhẹn của người lính năm nào. Nhắc đến Quảng Nam, ông hào hứng kể về những trận đánh của Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn, ông thuộc vanh vách từng tên đất, tên làng mình đã đi qua như An Hòa, Đức Dục, Kiểm Lâm, Bồ Bồ..., những cứ điểm nóng bỏng giáp mặt với kẻ thù như Giao Thủy, Bình Long, Trảng Nhật, Phú Phong, Bảo An... Ông kể, từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, mảnh đất Quảng Nam kết nghĩa đã đi vào trí nhớ của ông qua những câu ca quen thuộc như “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm/ Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say” hay “Ngó lên Hòn Kẽm Dá Dừng/ Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!”.

Ông nói: “Nay tôi tròm trèm tuổi thất thập, nhưng mỗi lần đến tháng Bảy là hồi ức chiến tranh như cuốn phim quay về…”. Tháng 3.1967, ông nhập ngũ và cùng đồng đội học tập, hoàn thiện các kỹ thuật chiến đấu đặc công với tinh thần “quả đấm thép”, rồi bắt đầu đi vào chiến trường Quảng Đà. Ông bảo: “Được biên chế vào Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn, vinh dự lắm bởi địa bàn hoạt động là Quảng Nam - tỉnh kết nghĩa với Thanh Hóa, vì vậy chúng tôi càng ra sức quyết chiến với kẻ thù”. Trước ngày lên đường nhập ngũ, ông nắn nót viết lên tường nhà câu khẩu hiệu của địa phương ông lúc bấy giờ là “Học tập Điện Bàn, Hậu Lộc quyết tâm làm Đông - Xuân thắng Mỹ” (Đông Xuân là vụ sản xuất chính, hàm ý làm trận thắng lớn). Dạo đó, Quảng Nam như là điểm hẹn, cái đích phải đến và sẽ đến của con em Thanh Hóa.
Ông nhắc nhiều đến gia đình má Trọng (xã Đại Hồng), má Diêu (xã Đại Minh) ở huyện Đại Lộc, các má đã ngày đêm nuôi giấu các chiến sĩ của Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn. Ông bảo lối vào nhà má Trọng là bãi đất bồi ven sông Thu Bồn mùa hè nóng bỏng chân, băng qua những luống khoai, ruộng lúa mẹ suốt ngày chăm bẵm ngoài vườn, rồi đào từng củ khoai, củ sắn độn cơm cho các chiến sĩ ăn qua ngày. Câu cửa miệng thường trực mỗi chiến sĩ đặc công lúc này là “Muốn đánh giặc xuống Điện Bàn, muốn chạy càn về Duy Xuyên, muốn bình yên về Đại Lộc”. Bởi thời điểm trước Tết Mậu Thân 1968, Đại Lộc tương đối yên ổn hơn, về đây các chiến sĩ được nghỉ ngơi sau những trận đánh khốc liệt ở vùng địch như Điện Bàn, Duy Xuyên. Một lần đi công tác lẻ vào tháng 7.1969, ông bị sốt rét và phải ở lại nhà má Doãn Thị Trọng, má chăm sóc ông thật chu đáo. Giặc Mỹ đi càn và lùng sục bắt bớ các chiến sĩ đặc công, má Trọng giục cô Hợi là con gái út của má, khi đó mới chín – mười tuổi nhưng lanh trí, dẫn ông chạy trốn quanh làng, hết chỗ này đến ẩn nấp chỗ khác, thoát khỏi vòng vây địch. Chiến trường không một phút bình yên, đồng đội ông đã chiến đấu suốt ngày đêm trên khắp mảnh đất Quảng Nam “trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ’. Ông là một trong 4 chiến sĩ của Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn  tự hào có mặt tiến công giải phóng Đà Nẵng, góp phần giải phóng hoàn toàn Quảng Nam - Đà Nẵng vào ngày 29.3.1975.

2. Trở lại quê hương Thanh Hóa, người thương binh 2/4 này không nguôi nhớ về mảnh đất Quảng Nam với bao gương mặt người mẹ hiền hậu đã nuôi giấu ông và đồng đội trong những năm khói lửa chiến tranh. Cuộc sống đời thường còn muôn ngàn khó khăn và đường xa cách trở, đã ngăn cản ông thực hiện ao ước được về với các má thân yêu. Nhưng thời gian không bao giờ xóa nhòa mà càng in đậm hơn trong ký ức người lính năm xưa từng tên người, tên đất ông đã gặp mặt, đã đi qua. Năm 2007, đi thăm đứa con đang làm ăn ở Sài Gòn, ông gặp một người Quảng và hỏi thăm tin tức về vùng đất Đại Lộc, nơi má Trọng, má Diêu... đã che chở cho ông ngày nào. Thế là, ông không quay về Thanh Hóa ngay mà ghé lại Đà Nẵng, mượn chiếc xe máy đi một mình tìm về với má Trọng, má Diêu...

Ông Nguyễn Hữu Ngoãn (thứ 2 từ phải sang) trong một lần trở lại chiến trường Quảng Đà.
Ông Nguyễn Hữu Ngoãn (thứ 2 từ phải sang) trong một lần trở lại chiến trường Quảng Đà.

Ông kể lại, khi ông tìm đến nhà má Doãn Thị Trọng, thì chị Kham, chị Hợi... con má Trọng nào đâu nhận ra ông. Nước mắt hội ngộ, ông đã khóc như đứa con xa nhà lâu ngày mới được trở về, và tiếc rằng má Trọng không còn sống để nhận mặt đứa con mà má đã từng thao thức nhiều đêm dài để chăm sóc khi ông bị những cơn sốt rét hành hạ; khi thì nhường hầm cho “đàn con” tránh kẻ thù. Ngôi nhà má như thoáng đâu đây tiếng nói tiếng cười của các chiến sĩ đặc công sau mỗi trận đánh, và cả giọng nói của má rằng “Tụi bay lo mà vô ăn cơm, lo mà nghỉ ngơi chờ lệnh đi đánh tiếp”. Hầm bí mật của má khắp nơi, trong nhà ngoài vườn, cả nơi mà quân thù không ngờ nhất. Má giấu những đứa con “bộ đội miền Bắc” ngay giữa nhà mình, dù bọn giặc hăm dọa khảo tra và lôi cô Hợi - con gái út của má ra dọa bắn nếu không chỉ hầm bí mật. Má quát lên, mắt trợn ngược nhìn vào họng súng kẻ thù: “Nếu bắn thì bắn cả tao đây này, chứ hầm mô mà tao chỉ?”. Giặc đi rồi má lại nấu cháo, nấu cơm lần lượt ra tín hiệu cho các chiến sĩ lên ăn... Ông ra thăm mộ má, lặng thắp nén nhang và như nói với má rằng, con đã về đây, dù có muộn nhưng con cũng đã được về với má yêu thương. Chị Kham kể cho ông nghe, sau giải phóng má cứ nhắc mãi, rằng “Không biết tụi hắn ra lại miền Bắc hay có đứa nào còn nằm lại chiến trường, tội nghiệp quá!”. Mỗi lần xem truyền hình, má lại chăm chú những gương mặt non tơ qua di ảnh và lắng nghe từng lời “nhắn tìm đồng đội”, như má tìm lại những đứa con đã xa...

3. Trong chuyến về đầu tiên đó, ông cũng đi tìm má Diêu. Gặp lại, cả má Diêu và ông cũng ngỡ ngàng một lát rồi mới nhận ra nhau. Ôm chầm lấy ông, má đã khóc: “Chu choa, tao tưởng tụi bay chết hết trơn trước giải phóng rồi, rứa thằng Túy da trắng như con gái có còn không?”. Mẹ vội vội vàng vàng cố lục ra trong trí nhớ nào thằng Ngọc, Vân, Tạo, Nhung..., hỏi chúng nó giờ ở đâu, còn sống hay đã chết?  Rồi má không nói nên lời, ôm chầm lấy ông mà nước mắt ứa ra, nghẹn lòng. Được gặp má Diêu, câu chuyện thời chiến tranh cứ tràn đi không dứt, mang theo tâm trạng bồi hồi với những ký ức nguyên vẹn như mới vừa xảy ra hôm qua. Trong khóe mắt má vẫn không ngưng dòng lệ khi ông kể cho má nghe đồng đội giờ người còn người mất, cả những người chưa tìm được thân xác đã gửi lại đâu đó trên mảnh đất Quảng Nam này.

Mươi năm nay, ông thường xuyên vào Quảng Nam nhân ngày giỗ má Trọng hoặc thăm chiến trường xưa, gặp gỡ những người một thời oanh liệt. Ông nói chiến tranh qua lâu rồi nhưng các con má vẫn còn nghèo lắm, chị Kham ngày trước là du kích xã, chị Hợi đã cứu ông trong vòng vây của giặc năm nào, bây giờ vẫn bám lấy ruộng vườn sống qua ngày. Trong gia đình má Trọng, bây giờ ai cũng gọi ông là “anh Hai” và thỉnh thoảng tin tức vào ra... Xa mà gần, mắt ông cay xè khi thắp nhang và đặt lên bàn thờ má món quà nhỏ của xứ Thanh. Ông vội lên xã Đại Minh thăm má Diêu và quấn quýt chuyện trò với má suốt cả buổi. Ông bảo, đến lúc chia tay thì ông lại không thể nào giấu đi cảm giác rưng rưng của thời khắc người ở kẻ đi. Cái nắm tay níu chặt của má như không thể rời xa được.

“Chúng tôi, những người lính đặc công đã từng sống và gặp trên đất Quảng biết bao người như má Trọng, má Diêu... Trong khói lửa chiến trường, sức mạnh của họ là lòng quả cảm và sự hy sinh vô bờ bến” - giọng ông Ngoãn xúc động.

Cuộc chiến qua đi. Và dư âm ở lại nơi người lính xứ Thanh!

THẢO NGUYÊN

(0) Bình luận
x
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Lính xứ Thanh nặng tình xứ Quảng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO