Mẹ là con gái đầu lòng của ông bà ngoại tôi. Năm lên tám lên chín mẹ đã theo bà ngoại đi chợ, cấy lúa trồng khoai, chăm sóc heo gà. Ở cái tuổi lẽ ra chỉ biết ăn uống chơi đùa, mẹ phải chịu cảnh hai bữa sắn một bữa khoai vào những ngày giáp hạt. Những hạt lúa mẹ mót được trên cánh đồng Trung Lộc nằm bên kia Đèo Le đẫm mồ hôi và tứa máu trên đôi chân nhỏ bé.
Bức tranh cuộc đời mẹ. (ảnh lấy từ Facebook ) |
Sau năm 50-51 của thế kỷ trước, mẹ được đi học lớp bình dân học vụ. Vừa mới học được một thời gian ngắn, chiến sự trở nên khốc liệt nên mẹ phải nghỉ học. Nhưng mẹ thuộc rất nhiều chuyện cổ tích và thơ ca, hò vè để “phục vụ” cho bọn nhóc chúng tôi. Mẹ thường kể nhiều chuyện cổ tích như chuyện Thạch Sanh - Lý Thông, Tấm Cám… Và mỗi khi kể xong câu chuyện, thế nào mẹ cũng căn dặn, không được làm ác như Lý Thông.
Hồi tôi còn học ở trường làng và cả sau này, tôi thường đưa bạn về nhà chơi. Dù bận rộn thế nào đi nữa, bao giờ mẹ cũng lo chu đáo việc cơm nước cho bạn hữu của con cái. Mẹ nói, con nhà người cũng như con của mình, ai cũng phải đi ra ngoài; có khi cũng lỡ đường; trông mình thì cũng nên biết nghĩ đến người… Triết lý sống của mẹ là làm việc gì cũng hướng đến đời sau! Có một điều khá lạ, là mẹ không mê tín. Không bao giờ mẹ tin chuyện bói toán và hiếm khi bàn tới thần linh. Mẹ hành xử như ông ngoại đã dạy theo lời đức Khổng tử là, đối với quỷ thần thì phải “kính nhi viễn chi” (cung kính, tôn trọng nhưng không gần gụi). Nhưng về việc giỗ chạp - tết nhứt, bao giờ mẹ cũng lo toan đầy đủ.
Mẹ thường nói, vào những ngày giỗ tết này, mẹ được gặp gỡ chuyện trò với ông bà trong niềm kính trọng và biết ơn. Sau này lớn lên, tôi được biết rằng trong lý luận giáo dục, các nhà sư phạm chú trọng về tính gương mẫu; ví dụ như việc học trò thường nhìn vào cách sống, cách xử thế của người thầy để mà làm theo. Tất nhiên mẹ tôi không biết được sự lý luận này. Nhưng cũng giống như bao bà mẹ khác luôn muốn con mình là người hiếu đễ, trung hậu, cho nên họ luôn sống một đời sống nghĩa tình, xem như đó là cách thể hiện điều mong ước ấy. Mẹ thường nhắc chúng tôi về thăm ngoại. Hôm thì cái bánh, gói xôi, bữa thì hộp cá đồng kho với mắm dưa… do chị Hai gói sẵn; tôi hoặc em gái kế tôi - cô Sáu, đem vào cho ông bà.
Suốt đời mẹ, hiếm khi thấy lúc nào mẹ không làm việc. Khi lên rẫy lúc xuống ruộng, khi ra vườn làm mía làm khoai lúc cấy lúa, trồng bông, nuôi tằm dệt vải… Đến tuổi 90 mẹ vẫn còn cầm dao rọc tàu cau và tự bó thành chổi để dùng trong nhà hoặc đem cho bà con trong xóm. Rồi trong những ngày không còn làm việc được nữa, sáng sáng chiều chiều, mẹ lần theo bức tường ra trước hiên ngồi trên chiếc chõng tre nhìn ra ngõ, ngóng thử có đứa con đứa cháu nào ở xa về thăm nhà. Rồi mẹ lấy mấy hạt cơm dán lên tường cho mấy con thằn lằn bò ra ăn. Rồi mẹ tẩn mẩn gác mấy que củi làm cầu cho đàn kiến đi qua, chăm chú nhìn và cười móm mém...
Trong một lần về thăm nhà đông vui, mẹ lấy cọng chiếu xỏ lại lỗ tai. Nhân thế, chị em tôi mua tặng bà đôi bông tai bằng vàng. Mẹ cười như hồi còn trẻ.
Đêm trước khi cha tôi chết, mẹ lần dò đến đánh thức tôi dậy và nói:
- Cha của con đã chết rồi.
Trong bóng đêm và trong nỗi ngậm ngùi, tôi bồng mẹ trở lại giường nằm, lòng băn khoăn một cảm giác gì không hiểu rõ. Qua ngày hôm sau cha tôi thở hơi cuối cùng.
Mẹ tôi đã sống gần trọn thế kỷ XX và tám năm đầu thế kỷ XXI. Mẹ chẳng đau bệnh gì, chỉ yếu dần như một ngọn đèn khô dầu. Hôm mẹ ra đi, có chị Hai, đứa em gái ở Bảo Lộc về và các cháu. Lúc mẹ thở hơi cuối cùng, tôi ngồi bên tay phải của mẹ, phía trong tường, cạnh cửa sổ; phía bên ngoài là con cháu của bà. Tôi vuốt mặt mẹ. Hàng lông mày của mẹ cong dài và đẹp. Mẹ nằm đó bình yên như đang ngủ. Một giấc ngủ thiên thu.
PHẠM ÚC