Nghệ thuật Chămpa đến với công chúng Mỹ trong cuộc hội ngộ các nền nghệ thuật của những vương quốc đã mất ở Đông Nam Á tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York.
Vào cuối năm 2005, khi John Guy và tôi cùng khảo sát di tích Sambor Prei Kuk - một khu đền - tháp Ấn Độ giáo nổi tiếng bằng gạch xây dựng từ thế kỷ 7 - 11 từng được xem là kinh đô Isanapura của Chân Lạp, nay thuộc tỉnh Kompong Thom, Campuchia; John có nói với tôi về ý định tổ chức một cuộc triển lãm nghệ thuật các vương quốc cổ đã mất ở Đông Nam Á (ĐNA), khi đó ông còn là quản thủ của Bảo tàng Victoria & Albert tại London. Từ năm 2008, ông được mời về làm quản thủ của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (Met) ở New York. Met là một trong những bảo tàng lớn nhất của nước Mỹ, sưu tập các nền nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới; tuy nhiên bộ sưu tập về nghệ thuật ĐNA của bảo tàng này không được phong phú lắm. Vì thế, khi John Guy phụ trách mảng nghệ thuật Nam Á và ĐNA của Met thì ông có cơ hội thực hiện ngay cuộc triển lãm lớn này.
Du khách tham quan di tích Mỹ Sơn.Ảnh: PHƯƠNG THẢO |
ĐNA cổ đại bao gồm nhiều vương quốc như Pyu ở Myanmar (Miến Điện), Dvaravati (Thái Lan), Phù Nam (Nam Việt Nam), Chân Lạp (Campuchia), Champa (Trung Việt Nam), Sri Vijaya (Malaysia/Indonesia),v.v. Đây là những vùng đất mà các thương nhân Ấn Độ gọi là Đất Vàng (Suvarnabhumi) vì nơi đây có rất nhiều mỏ vàng phong phú cùng với nguồn lâm sản đa dạng.
Phù điêu Visnu Anatasayin-Giáng sinh Brahma. Xuất xứ miền Tây Campuchia, thế kỷ 7-8. Bức chạm diễn tả chủ đề thần thoại Ấn Độ Ảnh: Bảo tàng Met |
Vào những năm 1940, thuật ngữ “Ấn Độ hóa” (Indianization) được đề xuất bởi học giả nổi tiếng người Pháp là George Coedes, để gọi các vương quốc cùng chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ở ĐNA ngày nay; còn các học giả Ấn Độ đương thời, như Ramesh C.Majumdar, thì gọi chung vùng này là Đại Ấn (Greater India). Thật ra, trước đó vào năm 1933, Paul Mus đã nhận thấy những yếu tố bản địa của tục thờ vạn vật hữu linh (anamism) nổi bật trong những tín ngưỡng du nhập từ Ấn Độ, chẳng hạn tục thờ yaksa (thổ thần) hoặc naga (rắn thần) giữ một vai trò quan trọng trong tín ngưỡng bản địa. Cho nên tôn giáo Phạn hóa của Ấn Độ và hệ thống thần linh của nó đã được cấy ghép một cách hoàn hảo bởi những tín ngưỡng bản địa của ĐNA như đã từng xảy ra ở chính đại lục Ấn Độ. Sức sống bền bỉ của những truyền thống bản địa đoan chứng rằng một sự bản địa hóa mạnh mẽ đã chiếm ưu thế tại vùng này. Khởi từ những năm 1970, cùng với Oliver Wolters, các học giả khác về ĐNA đã đề xuất những mô hình mới để mô tả quá trình chuyển biến văn hóa này---các mô hình này hàm chứa những ý nghĩa giảm bớt tính chất “thực dân hóa văn hóa”; chẳng hạn, “dung hóa văn hóa” (acculturation) hay “tiếp biến văn hóa” hoặc “bản địa hoá văn hóa” để chỉ quá trình tiếp nhận văn hóa Ấn Độ tại các vương quốc sớm ở ĐNA.
Visnu Anantasayin- Giáng sinh Brahma. Xuất xứ tháp Mỹ Sơn E1, Quảng Nam, thế kỷ 7 - 8. Bức chạm này của nền điêu khắc Champa |
Ngày nay, giới học thuật đều đồng thuận rằng những ảnh hưởng của Ấn Độ đã được tiếp biến một cách chọn lọc bởi những hệ thống chính trị đa trung tâm được kết hợp bởi nhiều tiểu vương quốc trong vùng. Sự tiếp biến văn hóa Ấn Độ tại ĐNA đã diễn ra trong suốt cả một quá trình của đối thoại và tái tạo liên tục. Chẳng hạn, khái niệm về vương quyền của Ấn Độ đã được khoác một bộ mặt rất khác biệt tại ĐNA; chỉ riêng các phong cách nghệ thuật cũng đã hiển lộ được những thành tố nổi bật của hoàng gia cho thấy rằng họ đã đạt được tư chất thẩm mỹ phi - Ấn một cách rõ rệt.
Sự giao thương giữa đại lục Ấn Độ và ĐNA đã xảy ra vào những thế kỷ trước CN, trong các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng của văn hóa Sa Huỳnh tại miền Trung Việt Nam hay tại di chỉ Khao Sam Kaeo hoặc Bản Đôn Tà Phẹt của Thái Lan, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều di vật có nguồn gốc từ đại lục Ấn Độ, nổi bật là đá quý, mã não và hạt cườm… dùng làm trang sức cho tầng lớp thượng lưu quý tộc trong các xã hội thời sơ sử trong vùng. Nhưng, sự tiếp thu văn hóa Ấn Độ chỉ thực thụ xảy ra tại ĐNA vào khoảng nửa thiên niên kỷ đầu của CN, còn những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo thì chỉ xuất hiện trong vòng thế kỷ 5.
Đầu Phật, cuối thế kỷ thứ 5 - đầu thế kỷ thứ 6. Xuất xứ ở miền Nam Ảnh: Bảo tàng Met |
Các thủ lĩnh địa phương đã xử dụng những mẫu hình du nhập từ Ấn Độ để củng cố địa vị và gia tăng quyền lực của họ: vào thế kỷ 5 đã xuất hiện lời thỉnh nguyện khắc bằng tiếng Phạn (Sanskrit) dâng lên thần Visnu, là đấng bảo hộ của vương quyền. Đó là những chứng cứ chính thức đầu tiên ghi nhận về việc gắn kết giữa các thủ lĩnh địa phương với những tôn giáo mới. Họ bắt đầu tự xưng vương hiệu bằng tiếng Phạn, bộc lộ sự đồng nhất cá nhân nhà vua với các vị thần Bà-la-môn; và bảo trợ cho các nghi lễ Bà-la-môn để cầu xin thịnh vượng và củng cố quyền lực. Điều này thể hiện rõ trong minh văn của vua Champa Bhadravarman hay Phạm Hồ Đạt dựng tại Mỹ Sơn vào cuối thế kỷ 4 - 5; trong đó nhà vua đã kết hợp tên riêng của ngài vào thần Siva - đấng bảo hộ vương quyền, để thờ phượng linga - Bhardesvara tại thánh đô hoàng gia này.
Nhìn chung, giai đoạn tiếp nhận giáo lý của đạo Bà-la-môn hay đạo Phật thường có trước khi tiếp nhận hình tượng tôn giáo. Vài pho tượng Visnu tìm thấy tại miền Nam Thái Lan và những pho tượng Phật bằng gỗ, có kích thước lớn, bị chìm dưới nước của văn hóa Phù Nam tìm thấy tại đồng bằng sông Cửu Long vào khoảng cuối thế kỷ 5 - 6, được xem là những hình tượng tôn giáo sớm nhất mang những yếu tố bản địa đã xuất hiện ở ĐNA.
Trong cuộc triển lãm quan trọng tại Mỹ, Bảo tàng Điêu khắc Chăm - Đà Nẵng được tuyển chọn và mời tham dự năm tác phẩm. Trong số này, có hai bức phù điêu mang những yếu tố nghệ thuật liên vùng tiêu biểu cho đặc tính “bản địa hóa” mẫu hình Ấn Độ, đó là: bức phù điêu Visnu Anatasayin - Giáng sinh thần Sáng tạo Vũ trụ Brahma, của ngôi đền Mỹ Sơn E1. Chủ đề thần thoại này rất phổ biến ở Ấn Độ, nhưng khi xuất hiện tại ĐNA, đặc biệt trong nghệ thuật Chàm và Khmer, thì ngôn ngữ diễn đạt của mỗi nền nghệ thuật đều khác nhau từ bố cục, hoa văn trang trí cho đến thủ pháp đặc tả nhân dạng và những chi tiết tạo hình; hầu hết đều xuất hiện trong thế kỷ 7 - 8, đó là thời hưng thịnh của các vương quốc Champa và Chân Lạp trong bối cảnh của một nền hải thương quốc tế rất thịnh đạt kết nối giữa Trung Á, Nam Á và Đông Á. Một bức phù điêu khác diễn tả một vị á thần yaksa tìm thấy tại Trà Kiệu, Quảng Nam năm 1927, đây là tác phẩm điển hình về sự giao thoa nghệ thuật liên vùng trên bán đảo Đông Dương, qua đó ta có thể thấy những yếu tố của nghệ thuật Môn - Dvaravati của Thái Lan, như mái tóc xoắn, đôi mắt mở lớn, đôi môi dày, mũi to, hoa tai vòng tròn v.v. đã xuất hiện trong một giai đoạn dài của nghệ thuật Chàm từ thế kỷ 6 - 8.
Với 170 tác phẩm có niên đại từ thế kỷ 5-8, cuộc triển lãm này trưng bày những phát hiện mới về kiến trúc và điêu khắc tại ĐNA; nó được giới học thuật đánh giá là đã đóng góp những kiến thức cơ bản nhất để tìm hiểu về các vương quốc huyền thoại đã mất trong vùng.
Gặp nhau ở Đà Nẵng hồi đầu năm ngoái khi John Guy đến mượn hiện vật của Bảo tàng Điêu khắc Chăm, ông nói với tôi rằng: “…Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu với công chúng Mỹ về những nền nghệ thuật độc sáng và đa dạng của ĐNA, qua đó nêu lên được một mối quan hệ sâu đậm giữa các vương quốc cổ trong vùng đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử; cư dân ở đây thuộc chung một đại gia đình ngôn ngữ là Nam Á (Austro-Asiatic) và Nam Đảo (Austronesian); họ là những dân tộc đồng văn đồng chủng; ngày nay, những cá tính nghệ thuật đó đã tạo nên những sắc thái văn hóa đa dạng để cùng xây dựng sự hiểu biết và mối quan hệ láng giềng trong một khối ASEAN đang phát triển...”.
TRẦN KỲ PHƯƠNG