Bên kia dãy Ngọc Linh hùng vĩ, thuộc địa bàn tỉnh Kon Tum, có tộc người Châu sống trên sườn ngọn núi Ngọc Yang. Trải qua nhiều đời ở vùng rừng núi thâm u lam sơn chướng khí, bệnh dịch và chiến tranh, hiện nay tộc người này đã ổn định cuộc sống bên láng giềng Xê Đăng. Đến bây giờ, họ vẫn còn giữ không ít những phong tục kỳ lạ.
Ký ức nhà dài
Chiều muộn, sương giăng mờ con đường đầy dốc đá từ cầu treo đi vào làng Đăk Rế, xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei (Kon Tum), nơi có hơn 70 hộ người Châu sinh sống. Bóng đêm về nhanh hơn. Khắp làng lửa đã bập bùng trên các nhà sàn. Nhà già làng A Vinh - đảng viên lớn tuổi trong chi bộ, chênh vênh trên sườn đồi, mái nhà ươm mùi khói, là là bay quyện với sương chiều. Chẳng nhớ mình bao nhiêu tuổi, già làng cười móm mém, làm nhăn thêm làn da đen nhẻm: “Hỏi tuổi tao thì… mày cứ hỏi núi Ngọc Yang này “sống” bao nhiêu năm rồi nhé! Tao về núi này ở khi đã thanh niên. Ồ mà nhớ chuyện cũ thì nhiều chuyện kể lắm…”.
Thời kháng Pháp, tộc người Châu đông đúc lắm. Nhiều làng nằm trên lưng chừng núi dọc theo suối Đăk Mek (Đăk Mek nghĩa là con nước rung, chảy) từ trên núi xuống. Mỗi làng xưa có nhiều nhà dài và mỗi nhà dài thường có 20 - 30 gia đình, thường cùng tộc họ máu mủ với nhau. Cứ thế mỗi gia đình một bếp, nhưng đêm đêm, lũ trai tráng ra nhà rông đốt lửa, uống rượu và ngủ tại đấy. “Xưa các làng hay gây chiến, bắt nô lệ, cướp tài sản, đàn bà… nên đàn ông ở nhà rông để sẵn sàng ứng chiến”, già A Vinh nhìn ngọn lửa bập bùng, kể câu chuyện tưởng chỉ có trong sách vở. Rằng ngày đó, làng nào đông đàn ông, thanh niên thì được xem là mạnh trong vùng, hay “ăn hiếp” các làng khác. Muốn chấm dứt can qua thì già làng hai bên phải họp lại, cắt máu ăn thề, bỏ qua tất cả chuyện cũ, không ai được giữ trong lòng mối hiềm khích, nếu không Yàng (trời) sẽ phạt tội.
Bỗng già A Vinh rùng mình kể: “Năm tao chừng 10 tuổi, bệnh dịch tả kinh hoàng gieo rắc 3 làng Đăk Rế, Đăk Blong và Đăk Tam. Ban đầu thì vài người chết, được cúng chôn cất hẳn hoi. Sau thì chết hết nóc này qua nóc khác, nằm la liệt khắp làng, khắp rừng và suối, không ai chôn cất xuể. Sau trận dịch đó, cả 3 làng này bỏ làng đi, du cư vào rừng sâu. Cả 3 làng ấy sống sót chừng 30 - 40 người nên nhập lại ở chung, thành làng Đăk Rế như bây giờ”. Giọng già A Vinh trầm xuống khi nói về thuở thăng trầm của tộc người mình. A Thọ (25 tuổi) tiếp lời, những khi người làng có dịp ngồi bên bếp lửa, uống rượu cũng hay kể về trận dịch kinh hoàng ngày ấy, để nhắc nhở con cháu bây giờ quý trọng cuộc sống và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Ông Phạm Quốc Tuấn, Bí thư Chi bộ làng Đăk Rế đã ở với người làng hơn 10 năm nay, nghe kể nên biết nhiều chuyện làng thuở xưa. “Bây giờ làng cũ của họ (trước khi xảy ra bệnh dịch) vẫn còn lại di tích theo Việt Minh kháng Pháp. Đó là một cái hào đào xung quanh làng, sâu đến mấy mét, rộng khoảng 5 mét”. Già làng A Vinh cũng xác nhận là có. Hồi ấy, chủ làng và người Châu cùng theo Việt Minh, cắt máu gà uống chung chum rượu ghè, cả làng đàn ông, đàn bà đều uống thề, quyết đánh Pháp. Vì vậy làng được gia cố rào làng, cắm chông xuống hào, chỉ chừa một lối ra vào làng và lối thoát vào rừng. “Muốn lên lại làng cũ, phải đi đường rừng khoảng 7km”- già A Vinh nói.
Cấm đàn bà ăn ở nhà rông
Trải qua các cuộc thăng trầm với những đau thương, người Châu di cư nhiều nơi, mất mát nhiều tài sản nhưng phong tục xưa họ vẫn còn giữ nhiều chuyện lạ lùng. A Thọ nói, phong tục làm lễ “cữ nước” được làm quy mô nhất vào dịp cuối tháng 2 đầu tháng 3 (âm lịch). Những ngày này, già làng họp dân lại tại nhà rông rồi định ngày làm lễ “cữ” nước. Theo phân công của già làng, người làng chia nhau đi chặt lồ ô làm cây nêu, cổng làng. Vào một buổi sáng tinh sương, khi đất trời tinh khiết nhất, già làng dẫn đầu nhóm đàn ông mang heo và gà ra đầu nguồn nước. Sau lời khấn thần rừng, thần suối, già làng cắt một ít tiết heo và tiết gà trộn lại rồi nhỏ xuống đầu nguồn để nước chảy theo ống lồ ô về làng. Kỳ lạ nữa là, khi già làng ra đầu nguồn nước thì 3 - 4 đàn ông, thanh niên khỏe mạnh đánh chiêng, trống tại nhà rông liên tục, đến khoảng 4 giờ sáng, già làng và nhóm đàn ông khiêng heo về đến nhà rông thì hết đánh chiêng trống.
Đường về xã Mường Hoong, nơi người Châu sống. Ảnh: PHẠM ANH |
Khi nước mang theo tiết heo, gà chảy về đến làng, đàn bà và con gái mang ống lồ ô ra ra hứng nước mang về nhà nấu cơm. Sau đó, già làng lệnh cho dân làng mổ heo ra, lấy nội tạng heo và thịt vùng ngang với xương sống heo để tại nhà rông, thịt còn lại chia cho dân làng mang về nhà. Khi cơm chín, đàn ông trong gia đình nào cũng mang cơm ra nhà rông ăn chung, mang theo chuột khô, cá suối. “Đàn bà tuyệt đối không được ăn ở nhà rông. Ai vi phạm thì sẽ bị làng phạt vạ. Trong năm xảy ra dịch bệnh, đau ốm, cháy nhà… thì nhà có đàn bàn ăn ở nhà rông ngày “cữ nước” sẽ bị làng đổ tội cho”, A Thọ kể. Chưa hết, mỗi khi dân làng “cữ nước” thì trong ngày đó, dân làng không được ra khỏi làng, 7 ngày không được đi làm rẫy. Cũng theo A Thọ, đến nay tục này vẫn duy trì.
Những ngày ở làng Đăk Rế, tôi còn nghe nhiều phong tục lạ nữa, làm nên nét riêng biệt của tộc người Châu ở chốn rừng thâm u này. Tục “nướng nếp” tổ chức vào cuối tháng 10 (dương lịch), gần giống như tục ngã rạ của đồng bào Xê Đăng ở cả phía Quảng Nam và Kon Tum, khi lúa rẫy đã thu hoạch xong thì cả làng tổ chức. Thế nhưng khác ở chỗ: suốt 3 ngày diễn ra tục “nướng nếp”, người Châu không đánh chiêng, đánh trống, mà nhà nhà đều nấu cơm nếp trong ống nứa trong đêm. Sáng hôm sau tùy điều kiện mỗi gia đình mà mổ heo, gà… mời hàng xóm qua ăn cơm nếp nướng. Sau 3 ngày ăn cơm nếp nướng, người Châu mang cơm này ra rẫy vào buổi sáng, đắp một con đập nhỏ ngăn nước lại, bỏ ống nứa nấu cơm nếp xuống, mời thần lúa, thần suối, thần rừng “ăn”, xem như cảm ơn thần đã cho người Châu no ấm.
Loay hoay với rừng
Ông Phạm Quốc Tuấn cho biết, cách đây hơn 10 năm, ở đây còn rất nhiều tục lệ, nhưng đến nay những tục lệ được xem là tốn kém, hủ tục thì vận động dân làng bỏ dần. Chẳng hạn như tục đâm trâu cúng Yàng, cứ người nhà có người đau ốm là đâm trâu, rồi hai năm tiếp theo cũng phải đâm trâu cúng Yàng để tạ ơn. “Mỗi lần đâm một con trâu, người Châu còn mổ thêm 2 con heo, vài chục con gà. Cúng xong thì xem như làm cả năm không đủ trả nợ, kiệt quệ kinh tế” – ông Tuấn kể. Thế nhưng không phải phong tục nào vận động dân làng cũng bỏ. Điển hình như gia đình có người chết thì người nhà đó 7 ngày mới ra khỏi nhà, còn cả làng thì 7 ngày sau mới được ra khỏi làng làm rẫy.
Bà Y Thi, Trưởng phòng Dân tộc huyện Đăk Glei bảo, đến nay người Châu đã tiến bộ rất nhiều. Ví như chuyện làng có người chết, ngày trước họ cữ đến 10 ngày mới đi rẫy. Ai đi rẫy, làng có bệnh tật, đau ốm, cháy làng… thì cả làng đổ hết cho người đó. Hoặc như nhà ai có tang gia, thì tự gia đình đó cõng đi chôn cất, dân làng không tham gia. Nói là vậy nhưng xưa nay, chưa ai có gan dám cưỡng lại tục làng, thăm thẳm trong lòng người Châu xưa là vậy, nhưng nay đã tiến bộ hơn. “Giờ tang gia, hay ở cữ người chết, bà con đến giúp gia đình đưa tang, ngày cữ cũng giảm xuống. Như vậy họ đã phần nào nhận thức được những “thiệt hại” từ phong tục mang mê tín này” - bà Y Thi nói.
Ngồi bên bếp lửa, ông Tuấn tâm sự, người Châu bây giờ còn nhiều khó khăn, dù hết hộ đói, nhưng 86% là hộ nghèo. Hàng ngày họ loay hoay với rừng, trồng cây, làm nông nghiệp nhưng đầu ra rất khó. Ông Phạm Quốc Tuấn đưa dẫn chứng như cây cà phê katimor, dù hiệu quả nhưng tiểu thương mua ở đây chỉ từ 3.000 - 4.000 đồng/kg tươi, chưa kể mất mùa.
Mấy năm nay chính quyền và các hội đoàn thể hỗ trợ trồng giống sâm dây, nhưng chỉ một số hộ làm tạm được. Số khác trồng xen vào các rẫy mì, cây bời lời… nhưng “chưa đâu vào đâu”. Những khó khăn ấy đã níu người Châu khó phát triển kinh tế, làm giàu.
Phóng sự của PHẠM ANH