Có một cô gái rất xinh đẹp lại nết na hiền thục, con một gia đình danh giá, khoa bảng của đất Hòa Vang vào làm dâu ở làng Hà Lam. “Hồng nhan bạc phận”, cô gái đó phải chịu cảnh góa bụa khi còn rất trẻ. Tuy vậy, không những thủ tiết thờ chồng, cô còn tham gia hầu hết phong trào cách mạng, làm rạng rỡ cho cả quê hương của mình và quê hương nhà chồng, được người đời xưng tụng là “Phiếu mẫu”. Đó là bà Nguyễn Thị Hướng.
Nhà thờ tộc Nguyễn Hữu, nơi thờ bà Nguyễn Thị Hướng.Ảnh: LÊ THÍ |
Người dâu hiền của đất Hà Lam
Nguyễn Thị Hướng là nhũ danh của bà Cử Lệ, vợ ông cử nhân Nguyễn Hữu Lệ, người làng Hà Lam, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình. Bà vốn xuất thân trong một gia đình khoa bảng có tiếng của làng Quan Nam, ngôi làng trù phú nằm dưới chân núi Kỳ Sơn hùng vĩ, uốn mình theo bờ nam sông Trường Định (Cu Đê) thơ mộng, nay thuộc xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Chú bà là cử nhân Nguyễn Đức Phong, đỗ khoa thi Hương năm Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức thứ nhất (1848), được bổ làm Hàn lâm viện điển tịch, thăng Án sát sứ Quảng Bình rồi Bắc kỳ tán tương quân vụ. Cha bà là Nguyễn Đức Hoan, một người học giỏi có tiếng nhưng lại lận đận trên đường khoa cử. Sau 3 khoa thi Hương đều chỉ đỗ tú tài nhưng ông Hoan nhất định không chịu thua em, nên vẫn quyết chí “lều chõng lai kinh”. Trời không phụ người có chí, khoa thi Hương năm Giáp Tý, niên hiệu Tự Đức thứ 17 (1864) ông đỗ Á khoa cử nhân, được bổ Biên tu sử quán, sau đó thăng tri phủ Thăng Bình, Quảng Nam.
Người con gái đầu, Nguyễn Thị Hướng, sinh ngày 2 tháng 6 năm Kỷ Mùi (1859) được ông đem theo nơi trấn nhậm - làng Hà Lam, phủ Thăng Bình - vừa để ông dạy chữ nghĩa, đạo lý làm người vừa để thay mẹ lo cơm nước cho mình. Tại đây bà sớm lọt vào mắt xanh của ông cử nhân Nguyễn Hữu Lệ, người nổi tiếng hay chữ của làng, đỗ cử nhân khoa thi Hương năm Mậu Thìn (1868).
Sau khi thi đỗ, Nguyễn Hữu Lệ được bổ làm Chủ sự sơn phòng sứ Quảng Nam. Chồng làm quan xa nhưng do được thừa hưởng nền giáo dục gia đình đầy đủ, truyền thống hiếu học và yêu nước của quê hương - nhất là từ tấm gương đạo đức của thân phụ và thúc phụ, bà Cử Lệ đã sớm thành người vợ hiền, người dâu thảo, được nhà chồng quý mến, bà con trong vùng nể phục. Làm quan chưa được bao lâu, năm 1880 ông Cử Lệ bị bệnh qua đời đột ngột. Lúc này bà Hướng mới chỉ 21 tuổi. Sau khi mãn tang chồng, bà Lệ là “gái một con”, lại có nhan sắc và học vấn, đang thời kỳ phơi phới xuân thì, nên được nhiều người dòm ngó, đánh tiếng xin cưới về làm vợ, nhưng tất cả đều bị bà cự tuyệt. Bà quyết thủ tiết thờ chồng nuôi con khôn lớn và tham gia làm việc nghĩa.
Vừa là “Nữ Tiêu Hà” vừa là “Phiếu mẫu”
Năm 1885, hưởng ứng hịch Cần vương của vua Hàm Nghi, Nghĩa hội Quảng Nam được thành lập, lãnh tụ lại là một nhà khoa bảng nổi tiếng, từng trấn nhậm cơ quan của chồng lúc sinh thời, đó là Chánh sơn phòng sứ Quảng Nam - tiến sĩ Trần Văn Dư, người làng Chiên Đàn, huyện Hà Đông - cũng là người đỗ đồng khoa cử nhân với ông Nguyễn Hữu Lệ năm 1868. Mặc dù là phận nữ, lại góa bụa nhưng bà Nguyễn Thị Hướng nhiệt tình tham gia phong trào. Bà vận động anh em ở quê nhà, làng Quan Nam, đóng góp cho đạo Nghĩa quân của Thống Hay (tướng Hồ Học) đang hoạt động ở vùng núi từ Hải Vân đến An Ngãi, Hòa Vang. Ở quê chồng, bà đóng góp tiền của cho đạo Nghĩa quân của Tán Hàm (Tiểu La Nguyễn Thành). Các lãnh tụ Nghĩa quân tôn vinh bà là “Nữ Tiêu Hà” - ý chỉ bà như Tiêu Hà thời nhà Hán (Tiêu Hà, người huyện Bái, là Thừa tướng nhà Hán. đã cùng với Trương Lương, Hàn Tín làm nên “tam kiệt” nhà Hán, đóng góp nhiều công trạng cho sự nghiệp của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng).
Sau khi Nghĩa hội tan rã, do sự đàn áp, đốt phá của quân Nguyễn Thân, Quảng Nam rơi vào nạn đói dữ dội, bà cùng với vợ của Sơn phòng sứ Nguyễn Trường (thân phụ của Tiểu La Nguyễn Thành) âm thầm nấu cháo cứu đói, tổ chức đưa người chết vào chôn cất tử tế ở nghĩa trủng của làng, dấu tích hiện nay vẫn còn.
Khi phong trào Đông du, Duy tân ra đời (1903 -1908), bà Nguyễn Thị Hướng là người tham gia ủng hộ nhiệt tình. Nhà bà trở thành nơi liên lạc của các chí sĩ, ngoài việc tiếp đãi ăn uống, bà còn cung cấp, đóng góp tiền bạc, không hề đắn đo tính toán.
Những lần Phan Bội Châu đến Quảng Nam đều được bà sắp xếp ăn ở, liên lạc với các đồng chí, lo tiền lộ phí. Bà đã vận động nhiều người cùng bà đóng góp tiền của cho Cường Để, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính và các du học sinh ở Nhật.Tiểu La Nguyễn Thành, Đỗ Đăng Tuyển, Thái Phiên - những người phụ trách kinh tài cho phong trào Đông du - đều xem bà là cánh tay phải của mình.
Công việc của bà làm rất cẩn thận, chỉ có các đồng chí biết mà thôi. Nhờ thế hoạt động của phong trào luôn giữ được bí mật.
Bà mất vào ngày 2 tháng 3 năm 1939, thọ 81 tuổi. Phan Bội Châu lúc này đang bị “an trí” ở Huế, có gửi một câu đối vào viếng:
Hận ngã bất vương tôn, quốc sĩ vị thường thanh cựu nhãn;
Phùng nhân đàm Phiếu mẫu, tuyền đài thượng đãi bạch sơ tâm.
Cụ cử nhân Hồ Ngận dịch:
Giận mình không phải Vương tôn, quốc sĩ lắm phen nhìn mặt trắng;
Gặp ai cũng khen Phiếu mẫu, tuyền đài có đợi tỏ lòng son.
Câu đối hiện còn treo ở ngôi từ đường tộc Nguyễn Hữu tại thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình.
Người như Phan Bội Châu còn phải gọi bà là Phiếu mẫu, đủ biết đóng góp của bà với phong trào lớn như thế nào. Rất tiếc do hoạt động bí mật lại là phận nữ nhi dưới chế độ phong kiến nên công của bà chưa được ghi nhận đầy đủ. Năm 2015, lần đầu tiên tiểu sử của bà được nhóm biên soạn đưa vào sách Danh nhân Thăng Bình (UBND huyện Thăng Bình xuất bản, năm 2015).
______________
(1) Phiếu mẫu là người đàn bà đập vải. Thời hàn vi, Hàn Tín được bà cho cơm ăn khi đói lã. Sau khi thành danh, Hàn Tín về lại quê, đích thân tìm đến nhà người Phiếu mẫu để đền ơn. Trong văn học cổ, chữ Phiếu mẫu dùng để chỉ những người có lòng tốt, giúp người không nghĩ đến việc trả ơn về sau.
LÊ THÍ