Hôm nay 11.7, UBND tỉnh tổ chức Lễ tuyên dương khen thưởng năm 2013; trao Huân chương Sao vàng do Chủ tịch nước truy tặng cho đồng chí Nguyễn Trác - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Pháp chế Trung ương Đảng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Nguyễn Trác là một cán bộ lãnh đạo, chiến sĩ cộng sản kiên cường, luôn thể hiện tinh thần và ý chí cách mạng bền bỉ, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo.
Đồng chí Nguyễn Trác, bí danh Thiều, sinh ngày 4.11.1904, tại làng Hà Thanh, tổng Hạ Nông, phủ Điện Bàn, nay là làng Hà Tây, xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Sau khi học hết năm thứ hai bậc trung học, tháng 6.1927, ông thoát ly gia đình, vào Sài Gòn - Gia Định làm công nhân cho hãng buôn Grands Magasins Charner. Trong thời gian này, sự bóc lột sức lao động thậm tệ của giới chủ đã khiến ông sớm nhận thức được con đường đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp công nhân. Từ cuối năm 1928, dưới tác động của cuộc bãi công ở xưởng đóng tàu Ba Son, ông cùng những đồng chí của mình tích cực tham gia hoạt động trong tổ chức Công hội đỏ ở hãng Grands Magasins Charner.
Ngày 20.7.1930, đồng chí Nguyễn Trác vinh dự được kết nạp vào Đảng tại Chi bộ hãng Charner - trực thuộc Tỉnh ủy Sài Gòn. Cuối tháng 10.1930, đồng chí được Thành ủy Sài Gòn chỉ định làm Bí thư Chi bộ Charner. Trên cương vị Bí thư Chi bộ, đồng chí trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân hãng Charner đòi cải thiện đời sống, ngày làm việc 8 giờ vào ngày 21.1.1931. Nghi ông cầm đầu tổ chức cuộc đấu tranh, chủ hãng bắt ông và đưa về Sở mật thám Catinat. Tại đây, bọn mật thám Pháp đã sử dụng mọi thủ đoạn tra tấn dã man nhất nhằm moi ra thông tin về chi bộ cộng sản ở hãng Charner nhưng ông nhất mực không khai, giữ vững ý chí của người cộng sản. Tức tối, chúng đưa ông về giam ở Khám Lớn (Sài Gòn). Đến đầu tháng 5.1933, thực dân Pháp mở phiên tòa xét xử đặc biệt, kết án ông 10 năm tù cấm cố và đày đi Côn Đảo. Ở nhà tù Côn Đảo, ông được giao chủ trì phong trào đấu tranh và được cử làm Bí thư một chi bộ. Tiếp đó, ông cùng với chi bộ nhà lao thành lập Chi bộ Bang II và được cử làm Bí thư Chi bộ kiêm phụ trách Ban đời sống Bang II trong các năm 1934, 1935, 1936. Tháng 7.1936, ông được trao trả tự do.
Với những công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Nguyễn Trác đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, và nhiều phần thưởng cao quý khác. Vừa qua, đồng chí Nguyễn Trác được Đảng, Nhà nước truy tặng Huân chương Sao vàng. |
Ra tù trong lúc phong trào cách mạng ở quê nhà đang diễn ra sôi động, ông lao ngay vào hoạt động, bắt liên lạc với các đồng chí cũng vừa ra khỏi các nhà tù để tiếp tục hoạt động. Hưởng ứng cuộc vận động Đại hội Đông Dương ở Sài Gòn, ông cùng với các đồng chí Trịnh Quang Xuân, Trần Học Giới trực tiếp thành lập Ủy ban Vận động Đại hội Đông Dương của Quảng Nam để tham gia cuộc họp toàn kỳ Đại hội Đông Dương diễn ra tại Huế vào ngày 20.9.1936. Theo sự phân công của đồng chí Nguyễn Trác, một số đại biểu tỉnh Quảng Nam đã tham gia tích cực vào cuộc họp này, bác bỏ dự thảo của những đại biểu thân Pháp, không công nhận ủy ban do một số nghị viên đặt ra và lập Ủy ban lâm thời Chi nhánh Trung kỳ của Đại hội Đông Dương.
Vào thời gian này, các đại biểu đảng bộ ở một số tỉnh Trung kỳ đã họp bí mật ở Huế để bàn về những nhiệm vụ của cách mạng và cử ra Xứ ủy lâm thời Trung kỳ. Đồng chí Nguyễn Trác được cử vào Xứ ủy viên và được phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Tiếp đó, tại cuộc họp tại nhà ông Nguyễn Ngọc Kinh, làng Tân Hạnh, huyện Hòa Vang, Ban Tỉnh ủy lâm thời được thành lập gồm 7 người, đồng chí Nguyễn Trác chính thức được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Cuối năm 1937, đồng chí được bầu làm Phó Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, kiêm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng trở vào.
Trong thời gian làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam, được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy, đồng chí đã cùng tập thể Tỉnh ủy lãnh đạo nhiều phong trào đấu tranh, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia như: hưởng ứng phong trào Đông Dương đại hội, lấy chữ ký kiến nghị gửi cho phái đoàn nghị sĩ Pháp sang Đông Dương điều tra tình hình; vận động bầu Phan Thanh vào Viện Dân biểu Trung kỳ khóa III; để tang chiến sĩ cách mạng Thái Thị Bôi… tạo bước phát triển mới cho phong trào cách mạng trong tỉnh.
Đầu năm 1938, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp tăng thuế nổ ra. Để đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân, thực dân Pháp tăng cường bắt bớ cán bộ, đảng viên trên địa bàn tỉnh. Ngày 15.11.1938, đồng chí Nguyễn Trác không may rơi vào tay giặc và bị kết án 1 năm tù, sau tăng lên 5 năm vì tội tham gia tổ chức đảng, âm mưu lật đổ chính quyền. Sau đó, chúng đày đi các nhà lao Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột. Đến năm 1943, ông mãn hạn tù và bị đưa đi an trí ở Đắk Tô (Kon Tum).
Tháng 7.1945, đồng chí Nguyễn Trác được trả tự do. Vừa về đến Quảng Nam, ông nhanh chóng móc nối với cơ sở tiếp tục hoạt động. Trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Đà Nẵng, đồng chí được phân công làm Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa TP.Đà Nẵng, phụ trách quân sự, binh vận và tiếp quản Tòa án thành phố. Sau Cách mạng Tháng Tám, được bầu làm Ủy viên Quân sự và Ủy viên Tư pháp thuộc UBND cách mạng lâm thời TP.Đà Nẵng.
Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, từ tháng 11.1945, đồng chí được Đảng phân công công tác trên lĩnh vực Tư pháp và lần lượt giữ các chức vụ: Chánh án Tòa án Quân sự khu vực Thuận Hóa, gồm 5 tỉnh từ tỉnh Quảng Trị vào đến Quảng Ngãi (11.1945); Công cáo Ủy viên tòa án quân sự Liên khu 4 (1946); Giám đốc Sở Tư pháp Liên khu 4 (12.1950). Trên các cương vị công tác, ông đã cùng đơn vị đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong việc điều tra, truy tố những đối tượng có hành vi phản cách mạng; từng bước tổ chức lại hệ thống tòa án từ cấp Liên khu trở xuống, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, góp phần trừng trị bọn tay sai, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, ông được Bộ Tư pháp cử làm Phó đoàn cán bộ Bộ Tư pháp về tiếp quản Hà Nội. Đến tháng 1.1955 làm Công tố Ủy viên Tòa án Nhân dân TP.Hà Nội rồi Giám đốc Vụ hình hộ Bộ Tư pháp, phụ trách Đảng đoàn Bộ Tư pháp. Từ tháng 5.1958 đến tháng 10.1959, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Bí thư Đảng đoàn; từ 1960 - 1966, là Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao. Ông cũng là đại biểu Quốc hội khóa II (1960 - 1964), đơn vị tỉnh Nghệ An.
Đầu năm 1966, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng như sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ban Pháp chế Trung ương Đảng được thành lập, do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban. Đồng chí Nguyễn Trác được cử làm Ủy viên, sau đó làm Phó Trưởng ban Thường trực. Trong thời gian công tác tại Ban Pháp chế Trung ương, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo hoàn thành tốt các công việc đề ra và đạt được nhiều thành tích quan trọng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tháng 4.1979, đồng chí nghỉ hưu, sống cùng gia đình tại TP.Hà Nội. Do tuổi cao, sức yếu, đồng chí Nguyễn Trác từ trần ngày 11.8.1986.
LÊ MINH CHIẾN