Nguyễn Văn Bổng sinh năm 1921 tại làng Bình Cư, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc. Đây là làng nhỏ ven bờ sông Vu Gia. Với vốn tích lũy qua những năm tháng đi cơ sở ở Quảng Nam - Đà Nẵng ông đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Con trâu (1952). Sau nhiều năm hoạt động cách mạng ở các vùng với những tác phẩm đáng chú ý ra đời, Nguyễn Văn Bổng vào Nam.
Nhà văn Nguyễn Văn Bổng thời kỳ ở chiến trường miền Nam. Từ trái sang: Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhà văn Nguyễn Văn Bổng và nhà văn Lý Văn Sâm. |
Ông xông xáo đi khắp nơi, vừa có mặt ở Bến Tre, quê hương đồng khởi, lại thấy ông xuất hiện ở chót mũi Cà Mau, rừng U Minh, Đông Nam Bộ. Khi trở về, ông cặm cụi suốt ngày đêm, hối hả viết như sợ mình không kịp hoàn thành nhiệm vụ, như sợ lỡ hẹn với nhân dân và chiến sĩ những nơi mình đến. Từ những đêm thức đỏ mắt ấy, tập bút ký Cửu Long cuộn sóng (giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu 1965) và tiểu thuyết Rừng U Minh ra đời. Nhà văn Từ Sơn, người em cùng đơn vị hồi ấy kể rằng: “Ở căn cứ Lãng Bạc, anh Tám Nhàn hối hả viết Rừng U Minh. Anh viết với tốc độ nhanh kỳ lạ, viết tới đâu là đưa cho cô Trúc đánh máy ngay hàng ngày. Anh viết được nhiều đến mức cô Trúc đánh máy không kịp, dù cô đánh máy có năng suất 20-25 tập mỗi ngày. Bản thảo đánh máy xong, anh tìm cách gửi ra Hà Nội. Các bản còn lại anh cho vào thùng đạn Mỹ đem cất giấu nhiều nơi đề phòng B52 đánh trúng chỗ này chỗ khác”. Tác phẩm Rừng U Minh viết về cuộc chiến đấu của quân dân ở miền đất tận cùng cực Nam của Tổ quốc đã đánh dấu một bước phát triển mới của ông với tư cách là nhà tiểu thuyết.
Vừa chấm dấu chấm cuối cùng kết thúc tiểu thuyết Rừng U Minh, Nguyễn Văn Bổng được điều vào công tác ở nội thành Sài Gòn nhằm bí mật vận động các giới văn hóa, văn nghệ, báo chí tham gia chống Mỹ. Hoạt động ở Sài Gòn có khó hơn ở căn cứ, ở đây đi lại, ăn ở không công khai như ở núi rừng mà được các cơ sở hướng dẫn, bảo vệ. Người hoạt động ở thành phố phải cải trang, đi lại kín đáo không để lộ tung tích. Có lần, ông ở nhà một cơ sở, vừa đi công tác về, vào cửa thì có người theo dõi, mò đến. Người khách hỏi:
- Ông có phải là Nguyễn Văn Bổng ở Đà Nẵng không?
Nguyễn Văn Bổng từ chối quyết liệt:
- Không, thưa tôi không phải.
Người ấy ngớ ra, rồi xin lỗi:
- Ờ, có lẽ bây giờ Nguyễn Văn Bổng ở Hà Nội hay ở Mốt-cu chứ đâu ở đây. Tôi nhầm rồi. Xin lỗi ông. Ngay lúc ấy, Nguyễn Văn Bổng giả vờ đi ra ngoài mua thuốc lá và thoát.
Có lần đi ngoài đường gặp nhà văn Rum Bảo Việt - một cán bộ văn nghệ hoạt động nội thành, ông mừng quá suýt reo lên. Nhưng nghĩ lại, vội quay mặt, phóng xe đi. Tuy bị theo dõi, nhưng Nguyễn Văn Bổng rất táo bạo. Có lần ông dùng Hon-da đi từ Sài Gòn lên Dầu Tiếng, về Bến Cát, Trảng Bàng tìm người thân cho Tô Hoài. Có lần, ông đứng ở Cầu Sa, Bến Lức, Long An đón nhà thơ Lê Anh Xuân và nhà phê bình văn học Hồng Tân từ R xuống, rồi thay quần áo, đóng vai người thành phố, đi Hon-da vào Sài Gòn mưa rượu về đãi bạn.
Tại Sài Gòn, với nhiều bút danh, ông viết bài cho báo Tin Văn, tờ báo công khai của giới trí thức Sài Gòn. Ông xông xáo đi chỗ này chỗ nọ của thành phố trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1968. Với những hiểu biết phong phú về thành phố Sài Gòn trong những năm ấy, ông viết tập bút ký Sài Gòn ta đó và sau này là tiểu thuyết Áo trắng.
Cuối năm 1968, sau những tin đồn thất thiệt ông đã hy sinh, nhiều bạn bè ở Hà Nội đã khóc ông. Nhà văn Đoàn Minh Tuấn kể lại rằng, lần ấy tôi và Đoàn Giỏi nghe tin anh hy sinh, mỗi lần uống rượu nhà ông Giỏi, tôi, Hoàng Trung Thông rót thêm một chén và thắp nén hương tưởng nhớ bạn cố tri. Bỗng nhiên hôm ấy Nguyễn Văn Bổng xuất hiện như trong truyện cổ tích. Ông vừa được điều ra Hà Nội, tham gia Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam và làm Tổng biên tập báo Văn Nghệ, như ông vẫn ở nguyên đó, chưa hề xa Hà Nội ngày nào.
Cuối năm 1974, anh em văn nghệ giải phóng lại gặp ông trong chiến dịch Buôn Ma Thuột như ông chưa hề rời khỏi miền Nam ngày nào. Nguyễn Văn Bổng vẫn như xưa, xông xáo hăm hở ghi chép. Sau đó, ông cùng bộ đội và lực lượng văn nghệ giải phóng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và ông là nhà văn đầu tiên có mặt tại Sài Gòn đúng 12 giờ trưa ngày 30.4.1975 tại dinh Độc Lập. Nhiều người ở đô thành vẫn tưởng ông bám trụ tại đó suốt từ năm 1968 đến giờ.
Sau khi miền Nam giải phóng, ông làm Tổng biên tập báo Văn Nghệ và mở những đợt đi sâu, đi dài ở nhiều vùng kháng chiến cũ ông đã từng qua hoặc chưa bao giờ được đặt chân đến để lấy tư liệu, viết các tập bút ký Đường đất nước, Ghi chép ở Tây Nguyên, tập truyện ngắn Chuyện bên cầu chữ Y và các tiểu thuyết Áo trắng, Sài Gòn 1967. Tiểu thuyết Áo trắng chẳng rõ thế nào được dịch ra tiếng Hàn Quốc với tên Áo trắng Sài Gòn. Sau khi ra đời nó bị cấm phát hành nhưng nhanh chóng được sao chụp thành hàng vạn bản phổ biến trong các trường đại học Hàn Quốc như là một cuốn cẩm nang hướng dẫn sinh viên phương pháp đấu tranh, cách tổ chức đấu tranh và cổ vũ họ bằng ngọn lửa của tuổi trẻ tự nhận thức, dám đứng lên làm cách mạng dân chủ.
Tác phẩm cuối đời của ông, Tiểu thuyết Cuộc đời được xuất bản năm 1989. Lúc này, ông đang bị bệnh nên không viết được, phải đọc cho vợ ghi. Tiểu thuyết Cuộc đời như sự tổng kết về cuộc đời ông, từ lúc tạm biệt quê hương đi Bắc rồi về Nam, trải qua bao vùng đất, bao hoàn cảnh với những biến động dữ dội của lịch sử dân tộc suốt 30 năm kháng chiến… Nhưng dù đi đâu, làm gì lòng ông vẫn luôn gắn bó, nặng tình với quê hương xứ sở.
Từ sau ngày miền Nam giải phóng, như để bù lại những năm xa quê, khi ở Hà Nội, khi công tác ở Nam Bộ, bây giờ ông thường xuyên đi đi về về Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông thăm nơi này, tìm hiểu nơi kia. Ông viết những bút ký về sự thay đổi của quê hương. Đó là việc xây dựng công trình thủy lợi Phú Ninh, về những Hợp tác xã điển hình tiên tiến. Ông tham gia viết bài cho tập sách “Về một vùng văn học” (do Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng xuất bản) kể lại những hoạt động văn nghệ thời kháng chiến chống Pháp ở Quảng Nam - Đà Nẵng và ở khu V. Ông tham gia phụ trách Trại sáng tác văn học (năm 1985) do Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức, không quản ngày đêm đọc bài, sửa chữa, góp ý cho từng sáng tác của anh chị em trẻ. Ông trầm trồ vui sướng khi đọc truyện Hoa lông chông trên cát của Gia Vi, bút ký Cát xanh của Hồ Duy Lệ…
Vào năm 1991, ông nhận làm chủ biên cho tập Văn miền Trung thế kỷ XX của Nhà xuất bản Đà Nẵng. Lúc này ông đã yếu lắm, phải nằm trên võng để làm việc với anh em biên tập, nhưng ông vẫn minh mẫn nhắc từng truyện hay của người nọ người kia. Ông luôn nhắc anh em biên tập đừng bỏ sót ai, đừng bỏ sót truyện hay nào.
Những năm cuối đời, mỗi khi có người ở quê hương ra Hà Nội ghé thăm ông, ông vẫn hỏi thăm tình hình đời sống và sáng tác của anh chị em văn nghệ tỉnh nhà. Ông thực sự vui mừng khi biết ai đó vừa có tác phẩm hay.
Ông mất ngày 9.7.2001, cách đây vừa tròn 15 năm. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Đây là một vinh dự của riêng ông cũng là vinh dự của vùng đất đã sinh ra ông - quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng.
THANH QUẾ