Phạm Phú Thứ là một người Quảng thuộc loại “sĩ hữu ngạnh, trực cảm ngôn chi khí” (kẻ sĩ ương bướng, luôn nói lời thẳng thắn khí khái). Vì tính cách này mà hoạn lộ của ông nhiều lần phải “lên bờ xuống ruộng”. Nhưng cuối cùng người ta cũng nhận ra ông là người vô tư luôn làm hết trách nhiệm của một năng thần, một kẻ sĩ!
Hai lần “vuốt râu hùm”
Phạm Phú Thứ là người cương trực lại rất năng động. Thấy việc trái, việc cần làm là ông can thiệp ngay dù có thể gặp nguy hiểm. Trong triều ông là người hay tấu trình lên nhà vua nhất. Suốt 37 năm làm quan (1844 - 1881) ông có gần 30 năm ở triều, làm việc ở cả 3 bộ Hộ, Lại, Binh nên có dịp gần gũi nhà vua.
Ít nhất có hai lần Phạm Phú Thứ đã “chỉ trích” và “khuyên can” vua Tự Đức bằng thái độ thẳng thắn!
Lần thứ nhất vào năm 1850, khi mới 29 tuổi và chỉ là chức quan nhỏ ở Tòa Kinh Diên (Phòng giảng sách cho nhà vua). Khi thấy nhà vua lơ là trong việc chính sự, ông đã dâng sớ “phê bình”. Lời lẽ trong tờ sớ được đánh giá là “không kiêng kỵ, na ná như tính tình của Thứ”, “trách vua với lời lẽ nặng nề”, nội dung như sau: “Lễ đại đình ít thấy ra triều thị, nhạc nội uyển kèn trống suốt cả đêm, nhà Kinh Diên lâu không tới giảng, chốn triều đình lâu không ban hỏi, thần tử ở bốn phương phủ huyện cũng lâu không được thừa chỉ thanh vấn. Lại nói: thái y phương thuốc điều hòa, thực cũng quá ư nghệ thuật, quần thần dâng sớ thỉnh an, vì tình khuất cả lời nói”. (Đại Nam Liệt truyện tập IV, quyển 34).
Vua Tự Đức, lúc này mới 21 tuổi và mới lên ngôi được 3 năm nên rất tức giận. Mặc dù được triều thần xin khoan tha cho lời nói ngay của Phạm Phú Thứ, nhà vua vẫn quyết định lột hết chức vụ của ông và đưa đi làm lính ở trạm Thừa Nông (Huế).
Rất may, lần này Phạm Phú Thứ được cứu bởi một người phụ nữ quyền lực, sáng suốt và nhân hậu. Đó là bà Từ Dũ, mẹ vua.
Chuyện kể: Khi biết chuyện Phạm Phú Thứ bị “kỷ luật”, một lần bà Từ Dũ hỏi Tự Đức: “Ông Phạm dâng sớ khuyên con, ông ta được cái gì?”. Vua đáp: “Dạ! Ông ấy không được gì cả. Nhưng con thấy làm bề tôi mà trách vua với lời lẽ nặng nề như thế là phạm thượng”. Bà hỏi tiếp: “Thế từ khi bị giáng làm lính, ông ta có tỏ lời oán hận gì không?”. “Con không nghe chuyện ấy. Nhưng biết rằng, ông ta mỗi chiều thường thả thuyền trên sông ngắm cảnh làm thơ ngâm vịnh”. Nghe vậy, Từ Dũ liền nghiêm mặt bảo: “Thế người này đáng trọng lắm! Dâng sớ trách như vậy vì thương vua, vì muốn vua lo việc nước tốt hơn. Thương vua, giúp vua lại bị nạn mà không một lời than van, đành cam chịu thế càng tỏ dạ trung thành. Đó là bậc trượng phu không vui ở chức tước được người trên trọng hay khinh mà vui ở việc làm chân chính. Con nên nghĩ lại!”.
Nhờ vậy, năm 1852, Tự Đực cho Phạm Phú Thứ về kinh, phục lại chức Biên tu, chức vụ mà ông đảm nhận trước đó… 8 năm, khi mới ra làm quan.
Lần thứ hai vào năm 1866, lúc này Phạm Phú Thứ đang là Thự (Quyền) Thượng thư Bộ Hộ. Rút kinh nghiệm từ lần trước, lần này Phạm Phú Thứ “mời” thêm ba vị đại thần uy tín cùng đứng tên trong bản tấu của mình và lời lẽ cũng “nhẹ nhàng” hơn. Sớ viết: “Rất mong hoàng thượng cân nhắc việc làm, bỏ bớt hư phí, mà chú ý chấn chỉnh việc thực… Hiện nay việc đánh giặc đã xong, biên giới tạm yên nhưng dân còn ốm chưa tỉnh hết, giặc Tàu chưa sạch hết, giặc biển chưa yên hết, việc phải làm của các bộ còn nhiều, xin hoàng thượng xét định kỹ càng, gìn giữ cẩn thận, giảm bớt đi chơi, trước làm việc dễ, sau làm việc khó, tu sửa nơi gần rồi đến nơi xa…”.
Lần này Tự Đức không nổi giận như trước, mà rất “chân thành kiểm điểm”: “Các bậc đế vương tuyệt không vui chơi khó lắm, chỉ không dám bừa bãi mà thôi. Trẫm đức ít tài mọn chưa rõ mưu xa trị nước. Việc lỗi từ trước đã không lấy lại được, từ nay về sau vẫn muốn ít lỗi mà chưa được cho nên nhiều lần phê bảo đã thổ lộ hết, không dấu giếm gì, mà bụng nghĩ biết lỗi để sửa, chẳng lúc nào dám quên”! (Đại Nam thực lục, Tập 7, trang 1033 - 1035).
Dưới cái nhìn của Tự Đức
Dù bị Phạm Phú Thứ mấy lần “phê bình” nặng nề nhưng dưới mắt Tự Đức, họ Phạm luôn là “người tham bồi lâu năm, đáng tin cậy”!
Phần lớn những tấu trình của ông đều được nhà vua nghe theo và ra lệnh cho triều đình thực hiện, như việc khai thác thủy nông trên sông Vĩnh Điện, tăng cường bố phòng cảng Đà Nẵng, xây dựng cảng Hải Phòng, đặt 4 tuyên phủ sứ ở các địa đầu… Đặc biệt là nhà vua đã bổ dụng ngay những hiền tài mà họ Phạm tiến cử như: Lâm Hữu Chánh (chức Tri huyện Kim Thành), Nguyễn Dục (chức Tế tửu Quốc tử giám), Ông Ích Khiêm (chức Tiễu phủ sứ). Với trường hợp Ông Ích Khiêm nhà vua còn tin tưởng “giao cho ngươi thiện hóa thêm”.
Phạm Phú Thứ cũng nhiều lần được Tự Đức ban sâm, quế, gấm, trà quý, tiền bạc… và nhất là đề thơ để tặng.
Năm 1864, sau khi đi sứ ở Pháp về có dâng 2 tập: “Tây hành nhật ký” và “Tây phù thi thảo”, vua Tự Đức rất cảm động, tặng ông bài thơ có câu:
“Lịch thiệp dĩ thân nam tứ chí
Mẫu thời vị tất phó không chương” (nghĩa là: thỏa chí nam nhi khi lịch thiệp, lo thời chưa chắc để tờ không).
Năm 1874, khi cử Phạm Phú Thứ ra Bắc làm Tổng đốc Hải Yên nhà vua có tặng ông bài thơ thể hiện sự đánh giá rất cao tài năng, đức độ cũng như những kỳ vọng vào ông:
Lưu hầu trạng mạo cự khôi ngô,
Cấp ngọa Hoài dương bệnh bất cồ.
Tuyền dũng chư thương nhiêu quốc phú,
Băng tiêu quần đạo tỉnh quân nhu
Thanh vân tảo đạt ưu nhưng học,
Bạch tủ không đàm mạn tự nho.
Đông hải hùng phong như tán tích
Bản Tào trùng tán Quảng Di Ngô.
Dịch nghĩa:
Trạng mạo nhà ngươi rất khôi ngô,
Cất nhắc người Hoài bệnh chửa lui
Suối mạnh nghề buôn gây quốc phú
Váng tan bọn giặc, đỡ quân nhu.
Đường mây sớm đạt nhưng còn học,
Tóc bạc bàn suông tự ngạo mình.
Gió mạnh Biển Đông công trạng tấn.
Hộ Tào lại nức tiếng Di Ngô.
Khi Phạm Phú Thứ mất (1882) nhà vua dụ rằng: “Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi đông sang tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc tới trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân gian chỉ chứa ác ở Quảng Yên, ông tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu…”. (Đại Nam liệt truyện)
Quốc sử quán triều Nguyễn cũng đã dành hơn 10 trang với gần 3.000 chữ trong Đại Nam liệt truyện để nói về Phạm Phú Thứ với những lời lẽ hết sức tốt đẹp!