Làng Bảo An là quê mẹ của tôi. Những năm còn thơ bé, nằm trên chiếc chỏng tre dưới đêm trăng thượng nguồn, mẹ thường kể về ông ngoại tôi, lâu ngày hình ảnh của ông gần gũi đến thân quen như một ông tiên trong truyện cổ. Nghe mẹ tôi kể, ông ngoại Phan Niên là một vị quan trong thời phong kiến, thường đi ngựa từ làng Bảo An về Đại Lộc như một văn nhân nhàn tản. Không biết có phải từ gốc gác lang bạt này của ông mà về sau mẹ tôi trở thành con dâu của xứ sở thượng nguồn sông Vu Gia, Đại Lộc?
Câu chuyện tuổi thơ chắp vá, mơ hồ ấy ngỡ đã quên lâu rồi, cho đến năm 1975, khi tôi dạy học tại Điện Bàn, mẹ đôi lần cùng tôi về nhà thờ tộc Phan trong những dịp thanh minh quê ngoại. Và, tôi hiểu thêm cội nguồn, quê mẹ của tôi.
Các văn nghệ sĩ du xuân Điện Bàn. Ảnh: N.N.HẠNH |
Nhớ những năm tám mươi, khi tôi còn làm văn nghệ ở Điện Bàn, ngày ấy các nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Thị Kim Cúc, Hoàng Minh Nhân, Đông Trình… mỗi lần về đây sáng tác, tôi đều được tháp tùng, đi dọc theo con sông Thu Bồn. Từ “Những biền dâu sống lại” của Ngô Thị Kim Cúc đến bút ký “Đứa con phù sa” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, rồi tuyển thơ “Giữa xanh thẳm Thu Bồn” của nhiều tác giả. Tất cả họ đã soi mình vào mảnh đất này như chiếc thuyền con tắm mát giữa dòng sông lịch sử.
Do tính chất công việc Phụ trách Chi hội Văn học nghệ thuật Điện Bàn mà tôi may mắn được cùng với các nhà văn lần theo hành trang cuộc đời của những nhân vật lịch sử như Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Trần Cao Vân, Phan Khôi, Lê Đình Dương, Trần Quý Cáp… trên mảnh đất này. Trong bút ký “Đứa con phù sa”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết “Trong khoảng một nghìn năm trăm năm từ ấy đến giờ, trải biết bao hoạn nạn của trời đất, thế mà cái dòng chảy của sông Thu Bồn hầu như không hề thay đổi”. Dòng chảy không đổi, con sông ấy vẫn cứ mãi đắp bồi tốt tươi cho cuộc sống con người, cho mai sau trường tồn, rạng rỡ.
Văn nghệ sĩ khắp nơi về đây bằng chính tấm lòng ngưỡng mộ, tri ân. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường không lần theo quá khứ, không dừng lại ở tính chất hoài cổ mà bao giờ ông cũng nồng ấm hiện tại, dùng lịch sử để lý giải những vấn đề của hôm nay. Ngày ấy, anh Cao Thanh Tấn, một người rất yêu quý anh em văn nghệ, là bí thư xã Điện Quang luôn đồng hành với các nhà thơ nhà văn để khám phá tinh hoa của vùng đất này.
Sáng nay, một mình tôi lái xe về Gò Nổi, đến ngay nhà thờ tộc Phan, phái Nhì, rồi ra một quán cà phê cóc ngồi nhớ lại bao điều. Nhớ năm 1988, tôi đã “gan dạ” đưa nhà thơ Phùng Quán về trường Nguyễn Duy Hiệu làm đêm thơ “Tạ Làng”. Hội trường không còn một chỗ trống, những người yêu thơ phải trèo lên mái nhà để thò đầu xuống nghe “Lời mẹ dặn”của ông. Chiều hôm đó, nhà thơ Phùng Quán ngồi đàm đạo với thầy Nguyễn Văn Xuân về Phan Khôi - một nhân cách lớn, đã lựa chọn con đường để tự trở thành một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa xuất sắc. Thầy Xuân với giọng Quảng chắc nịch, sang sảng tại nhà ông Nguyễn Văn Minh, chủ tịch huyện lúc bấy giờ: “Phan Khôi là một kẻ sĩ tiêu biểu, là con người của thời đại, sinh ra từ các trào lưu yêu nước như Duy tân, Đông du, Đông Kinh Nghĩa Thục. Truyền thống của làng quê văn hiến, của gia đình cộng thêm tố chất thiên bẩm đã hun đúc nên phẩm chất và bản lĩnh của một con người Quảng Nam thứ thiệt sừng sững hơn nửa thế kỷ, dù cuộc đời ông trải qua bao sóng gió…”.
Tôi lại nhớ mới năm ngoái đây thôi, trong dịp đầu xuân cũng chính trên quê mẹ của mình, nhà văn Đặng Tiến từ Pháp về cùng với một số văn nghệ sĩ đến thăm các danh nhân Điện Bàn và dừng chân tại nhà thờ tộc Phan Bảo An này. Không ai nói ra, nhưng tất cả đều ngước nhìn di ảnh cụ Phan Khôi như bày tỏ lòng biết ơn, ngưỡng mộ. Nhà văn Đặng Tiến, quê làng An Trạch, phủ Điện Bàn, lập nghiệp tại Pháp từ năm 1968, giảng dạy tại Đại học Paris, với nhiều tác phẩm nổi tiếng, ông trò chuyện với chúng tôi: “Phan Khôi đủ đầy tài năng để có những bước đi tiên phong trong nhiều thể loại văn chương, góp phần làm thay đổi diện mạo tiến trình văn học đất nước. Bài “Tình già” trên Phụ Nữ Tân Văn năm 1932, ông đưa ra một “Lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, khởi đầu cho phong trào Thơ mới sau này. Phan Khôi còn là một trong số người viết phê bình văn học đầu tiên ở nước ta, lại từng đóng vai ngự sử trên văn đàn để “dọn vườn” cho một số sách, báo đương thời ngày ấy... Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cười nhỏ nhẹ: “Giới làm thơ nghe tên cụ Phan Khôi mà không cúi đầu bái phục thì ngẫm cũng khó… cách tân được thi ca! Bởi bậc tiền bối đã từng mới, từng tung hoành lẫy lừng đến thế kia mà! Cuộc đời của cụ gian truân đầy khí phách, hệt bài thơ “Nắng được thì cứ nắng” đầy bản lĩnh của Phan Khôi.
Trong quán cà phê giờ này có vài du khách và người dân địa phương, họ đang tranh luận hay cãi nhau về những ẩn ức oan khiên gì đó của Phan Khôi, nghe không rõ. Nhưng tôi lại liên tưởng đến cách lý giải của Phan Khôi về chuyện Quảng Nam hay cãi: Là phải “xét cho đến nơi, tìm chứng cứ ở sự thật”, ấy là sự rõ ràng, khúc chiết, thẳng thắn và sẵn sàng tranh luận. Phong cách ấy, đến bây giờ vẫn còn nguyên tính tươi mới để các thế hệ sau kế thừa đầy tự hào về tính cách Quảng Nam.
Một ngày về quê mẹ suy tư và tĩnh lặng. Hương vị của ly cà phê giữa làng quê Gò Nổi đầy ắp mùi rơm rạ bùn đất. Tôi biết ơn đất này.
NGUYỄN NGỌC HẠNH