Từ ngày 11 - 13.10.2020, tại TP.Tam Kỳ, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2020 - 2025). Sau 3 ngày làm việc, với tinh thần trách nhiệm, dân chủ, đoàn kết, trí tuệ, Đại hội đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra và thống nhất quyết nghị các nội dung của đại hội. Ngày 26.10.2020, thay mặt Đoàn chủ tịch Đại hội, đồng chí Phan Việt Cường, Bí thư Tỉnh ủy đã ký ban hành Nghị quyết số 01-NQ/ĐH. Báo Quảng Nam trân trọng giới thiệu những nội dung cơ bản của Nghị quyết về những mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển Quảng Nam giai đoạn 2021 - 2025 (toàn văn Nghị quyết số 01-NQ/ĐH được đăng trên Báo Quảng Nam điện tử).
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII nêu rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm, chỉ ra những mặt hạn chế, khuyết điểm. Qua đó, Đại hội đã thống nhất đề ra những mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Hướng đến xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh, hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động xã hội; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, bảo vệ tốt môi trường sinh thái; tăng cường quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030.
Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh
Một trong những giải pháp cốt lõi để hoàn thành mục tiêu đặt ra, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII nhấn mạnh yếu tố xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; cụ thể hóa kịp thời các chủ trương, quan điểm của Đảng phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh. Thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng và người đứng đầu trong công tác tổ chức, cán bộ. Khuyến khích, trọng dụng cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân...
Hoàn thành mục tiêu trên, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII đề ra những giải pháp cụ thể, sát sườn cho từng ngành, lĩnh vực và vùng miền.
3 nhiệm vụ đột phá trong xu thế mới
Tiếp tục phát huy 3 nhiệm vụ đột phá của nhiệm kỳ trước, nhưng lần này Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII nâng lên tầm cao mới với những giải pháp chiến lược: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và phát triển đô thị; chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; cải thiện môi trường đầu tư và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Trong đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và phát triển đô thị, Nghị quyết hướng đến tổ chức, thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị, khu công nghiệp để sẵn sàng đón nhận nhà đầu tư mới trong nước, nước ngoài. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đa dạng hóa hình thức đầu tư để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Tập trung xây dựng đô thị đạt các tiêu chí theo quy hoạch; nâng cao chất lượng các đô thị hiện có, mở rộng không gian phát triển đô thị ở những nơi có điều kiện, nhất là đô thị tỉnh lỵ. Phát triển đô thị theo hướng đô thị thông minh và đô thị sinh thái, gắn với phát triển du lịch.
Nghị quyết cũng đề ra giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả ngành, lĩnh vực; phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, thu hút, tuyển dụng và sử dụng nhân tài, tạo môi trường làm việc thuận lợi, đồng thời với việc đào tạo về năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ hiện đại. Chuẩn hóa và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, từng bước thích ứng với môi trường công nghệ số. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; công khai, minh bạch thông tin, thủ tục hành chính, kiên quyết loại bỏ chi phí không chính thức; tạo môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, hấp dẫn. Xây dựng đề án hỗ trợ, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng cường tuyên truyền, vận động, trang bị kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp sáng tạo cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Cơ cấu lại nền kinh tế
Đối với các ngành, lĩnh vực, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII đặt ra nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tăng thu nhập thực tế cho Nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, cơ cấu ngành kinh tế là: thương mại, dịch vụ - công nghiệp, xây dựng - nông nghiệp. Để thực hiện, Nghị quyết hướng đến giải pháp phát triển dịch vụ - du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong đó, tập trung phát triển những ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, có khả năng thúc đẩy phát triển các ngành trọng yếu khác và cùng tham gia hình thành chuỗi giá trị. Tiếp tục phát triển du lịch theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nhất là chuỗi liên kết du lịch đáp ứng bộ tiêu chuẩn du lịch quốc tế, đi đôi với bảo tồn, phát triển di tích, di sản, nhất là di sản văn hóa thế giới.
Ở vị trí thứ hai, ngành công nghiệp được định hướng phát triển bền vững theo chiều sâu, ưu tiên những ngành có lợi thế để tạo ra những sản phẩm có thương hiệu và có sức cạnh tranh, tham gia vào chuỗi giá trị đa quốc gia. Chuyển dịch mạnh cơ cấu công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp. Xây dựng các khu, cụm liên kết ngành tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thu hút và phát triển nhóm ngành công nghiệp chủ lực. Đầu tư hạ tầng công nghiệp gắn với giải quyết tốt vấn đề môi trường, xử lý nước thải, chất thải công nghiệp và kết nối với phát triển mạng lưới giao thông liên kết vùng, miền.
Về nông nghiệp, cùng với tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới theo hướng thực chất, hiệu quả, bền vững, tạo sự chuyển biến tích cực đến cuộc sống của người dân ở nông thôn, Nghị quyết đề cao giải pháp đẩy mạnh thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm - OCOP gắn với xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm và phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa tập trung, an toàn, ứng dụng rộng rãi kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao. Tạo sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, nông thôn; triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Phát triển cân bằng giữa các vùng miền
Tạo sự cân bằng trong phát triển giữa các vùng miền cũng là yêu cầu quan trọng Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII đặt ra để tạo sự phát triển bền vững chung cho tỉnh trong giai đoạn tới.
Đối với vùng đồng bằng ven biển, Nghị quyết định hướng đầu tư phát triển vùng ven biển trở thành chuỗi đô thị - trung tâm dịch vụ, du lịch - công nghiệp sạch - nông nghiệp công nghệ cao; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử; phục hồi hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu. Phấn đấu đưa kinh tế biển và vùng ven biển của tỉnh phát triển mạnh, giữ vai trò chủ lực trong nền kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh. Tổ chức lại và thúc đẩy triển khai, đưa vào hoạt động hiệu quả các nhóm dự án trọng điểm vùng đông nam. Đối với khu vực trung du, miền núi, tạo đột phá trong thực hiện các nhóm dự án lớn tại vùng tây của tỉnh. Huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng kết nối giữa đồng bằng và miền núi. Hoàn thành việc bố trí, sắp xếp, ổn định dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Tập trung phát triển trồng rừng sản xuất, rừng gỗ lớn, phát triển cây nguyên liệu, dược liệu, sâm Ngọc Linh. Hỗ trợ đầu tư hạ tầng, khôi phục và phát triển các làng nghề. Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch; liên kết phát triển du lịch giữa vùng đông và vùng tây của tỉnh. Phát triển các ngành công nghiệp phục vụ đầu ra cho sản xuất, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc trưng của miền núi. Quan tâm giải quyết việc làm, cải thiện sinh kế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai theo mô hình khu kinh tế tổng hợp, lấy cơ chế mở làm đột phá xuyên suốt, phấn đấu trở thành khu kinh tế động lực của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII còn đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, góp phần hình thành một thế hệ công dân mới. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao mạnh mẽ khoa học và công nghệ, thông tin truyền thông; tạo mọi điều kiện để đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, đời sống. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai. Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân; đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững. Gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường công tác nội chính; phòng chống tham nhũng, lãng phí; cải cách tư pháp. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính; tinh giản biên chế, cơ cấu lại tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Nhấn mạnh đến giải pháp phát huy giá trị và sức mạnh văn hóa, con người Quảng Nam, Nghị quyết đặt ra yêu cầu bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển các giá trị, nhân cách tốt đẹp của con người Quảng Nam; khơi dậy khát vọng vươn lên, cống hiến cho quê hương, đất nước.
CÁC NHÓM CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
a. Nhóm chỉ tiêu về kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm từ 7,5 - 8%.
- GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 từ 110 - 113 triệu đồng.
- Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 9% (trong đó, thu nội địa tăng bình quân 10%/năm, thu xuất nhập khẩu tăng bình quân 4%/năm).
- Tỷ trọng các ngành trong GRDP đến năm 2025: công nghiệp - xây dựng từ 35,8 - 36%; dịch vụ từ 37,2 - 37,3%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp từ 17,5 - 17,4%; nông, lâm nghiệp, thủy sản từ 9,5 - 9,3%. Đến năm 2030: công nghiệp - xây dựng 35,5% (trong đó, công nghiệp 28,7%); dịch vụ 37%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp 19,3%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 8,1%.
- Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 khoảng 37%; trong đó, phấn đấu xây dựng thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại I vào năm 2025, từng bước xây dựng đô thị sinh thái, thông minh và đạt tiêu chí đô thị loại I vào năm 2030. Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 40%.
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa bình quân 10%/năm.
- Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GRDP đến năm 2025 trên 30%.
- Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân từ 6,8 - 7,3%/năm.
- Số lượt khách du lịch đến năm 2025 đạt khoảng 12 triệu lượt khách.
- Tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa vào năm 2025 trên 99%.
b. Nhóm chỉ tiêu về xã hội:
- Đến năm 2025, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 71 - 72%.
- Đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 70 - 75%; trong đó, tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%; số lao động có việc làm tăng thêm 80.000 người.
- Phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh giảm còn 2,87% (trong đó, tỷ lệ hộ nghèo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội khoảng 1,83%).
- Đến năm 2025, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 96%; có 12 bác sĩ/vạn dân; 43,6 giường bệnh/vạn dân; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi còn 20%.
- Đến năm 2025, có 70% trường mầm non, 95% trường tiểu học, 80% trường THCS, 60% trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
- Đến năm 2025, có 160 xã, chiếm 80% số xã, đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), trong đó 64 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 16 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; không còn huyện không có xã đạt chuẩn NTM, không còn xã đạt dưới 15 tiêu chí; có 9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM, trong đó có 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu; phấn đấu trở thành tỉnh đạt chuẩn NTM trước năm 2035.
- Thu nhập bình quân đầu người tính theo thu nhập thực tế đến năm 2025 từ 68 - 70 triệu đồng.
- Đến năm 2025, trên địa bàn tỉnh không còn nhà tạm bợ.
c. Nhóm chỉ tiêu về môi trường:
- Đến năm 2025, tỷ lệ dân đô thị được sử dụng nước sạch đạt 90%.
- Đến năm 2025, 100% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị và 95% tại các điểm dân cư nông thôn được thu gom và xử lý; 95% chất thải rắn công nghiệp thông thường, 80% chất thải nguy hại, 100% chất thải rắn y tế được thu gom và xử lý.
- Đến năm 2025, 100% các khu công nghiệp đang hoạt động và 50% cụm công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy trên 50% có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn về môi trường.
- Đến năm 2025, không phát sinh mới các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và 100% các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nằm trong danh mục được khắc phục ô nhiễm và đưa ra khỏi danh mục.
- Đến năm 2025, tỷ lệ che phủ rừng đạt 61%.
d. Nhóm chỉ tiêu về xây dựng Đảng; quốc phòng, an ninh:
- Hằng năm, số đảng viên được kết nạp từ 1.500 đảng viên trở lên; số đảng viên được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt tỷ lệ từ 90% trở lên; số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ từ 90% trở lên, không có tổ chức cơ sở đảng không hoàn thành nhiệm vụ.
- Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, giao quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu giao; 100% xã, phường, thị trấn vững mạnh về quốc phòng, an ninh, trên 70% xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện.