Ngày đi học và những năm mới ra trường, những “phẫu thuật viên” như tôi thường trăn trở:“Chỉ định ca này đúng hay không; là sớm hay muộn?”. Không biết bây giờ, còn mấy người nghĩ đến điều này?
Tôi đã dự một số hội nghị và biết qua một vài báo cáo nêu lợi ích và bất lợi của việc mổ lấy thai. Nhưng rồi sản phụ sinh mổ vẫn cứ càng ngày càng tăng theo hằng năm... Ở một số nước phát triển, họ vẫn khuyến khích bệnh nhân sinh thường chứ đâu có mổ nhiều như bây giờ. Ngày xưa bác sĩ nào giúp cho bệnh nhân sinh ngả âm đạo nhiều và không tai biến sẽ được khen trong các buổi giao ban... Bây giờ, tâm lý ấy không còn nữa, trừ một số người tâm huyết với nghề.
Trong một ca trực sản, bác sĩ bây giờ ít khám bệnh vì không có thời gian. Họ bận luôn trên phòng mổ thì đâu còn thời gian để khám... Không hẳn tất cả các sản phụ đều phải mổ, nhưng bây giờ, ngoài một số lý do chính đáng được học từ sách vở còn nhiều lý do khác làm cho họ không có thời gian ở tại phòng sinh. “Người nhà yêu cầu”, “không phải theo dõi”, “đã gửi cho mình rồi”, “thôi thì mổ quách”, “đẻ được không ai khen”, “lỡ có tai biến không biết có bị khiển trách?”, “có lên trụ điện hay mặt báo ngày mai không???”… những tự vấn như vậy cứ xoay trong đầu. Và vậy là mổ lấy thai cứ tăng vùn vụt. Tôi là bác sĩ trong nghề và làm ở bệnh viện công mà còn thấy chóng mặt.
Thực ra áp lực từ người nhà bệnh nhân không ít... Họ không hiểu nguy cơ mổ lấy thai nguy hiểm như thế nào trong mỗi ca mổ và lần đẻ sau, cứ thấy con cháu mình đau đẻ là họ thấy khổ sở. Tư vấn có người hiểu, có người không chịu nghe. Tâm lý sợ đổ thừa đã làm tăng thêm xu hướng sinh mổ. Thực sự, nếu kiên trì giải thích họ cũng hiểu, nhưng mấy ai đủ sức kiên nhẫn trong bận rộn? Chưa kể một số người nhà bệnh nhân ngoan cố vào xin mổ với khuôn mặt “hình sự”. Không ai còn dám để lại theo dõi! Lại thêm, một số phụ nữ sợ đau đẻ và không biết ai tư vấn cho họ chuyện sinh đẻ tự nhiên ảnh hưởng đến khu “vui chơi, giải trí” sau này, nên họ tha thiết xin mổ, không chờ đau đẻ… Cứ thế, bác sĩ đáp ứng nhu cầu này mà không chờ chuyển dạ.
Riêng cá nhân tôi không đồng ý với luận điểm “vào phiên trực, bác sĩ giúp cho”. Mỗi sáng, cứ nhận ca trực, các nữ hộ sinh phải chạy xét nghiệm vội vã những ca bác sĩ hẹn mổ cho kịp mặc dầu bệnh nhân chưa chuyển dạ. Cũng có một số sản phụ được theo dõi theo đúng bài bản sau mấy tiếng đồng hồ, nhưng không đẻ được phải mổ. Vậy là người nhà trách móc: “Sao bác sĩ không mổ sớm để con em mất sức?” Họ không biết theo dõi một ca sinh ngả âm đạo mệt hơn một ca mổ lấy thai. Và điều này đã làm bác sĩ Sản khoa không còn nhiệt tình trong theo dõi. Dần dần, một ca sinh ngả âm đạo có thể chuyển sang mổ lấy thai lúc nào không biết.
Một vết mổ lấy thai mới trở thành vết mổ cũ trong lần có thai sau... Và bao nhiêu nguy cơ: dính vết mổ, dính ruột, nhau tiên đạo, nhau cài răng lược.. Thú thật, sau bao nhiêu năm, tôi vẫn cứ sợ khi đứng trước một ca vết mổ cũ. Làm thế nào để hạn chế mổ lấy thai không đúng chỉ định và sanh ngả âm đạo không tai biến vẫn là nỗi trăn trở của nhiều người!
(BS. Kiều Trinh - Phó Trưởng khoa Sản - Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam)