Bất kỳ ai có tìm hiểu văn học Trung Quốc, dù chút đỉnh thôi, đều tâm phục trước cách dùng từ hoa mỹ và bóng bẩy của họ, tuy đôi khi cũng rơi vào sự sáo rỗng. Đôi khi họ dùng một biểu tượng cao quý để diễn đạt một ý nghĩa tầm thường, thậm chí dung tục.
Tôi chỉ xin lai rai mạn đàm về hình tượng của hai nhân vật được coi là “cực phẩm của nhân gian”, đó là vua và hoàng hậu, qua loại ngôn ngữ cầu kỳ dùng cho họ.
1. Vua là bậc chí tôn của thiên hạ nên hình tượng ông biến thành một cái gì đó rất đỗi siêu phàm, dù lịch sử cho ta biết không thiếu gì những ông vua là người ít học như Lưu Bang, người mở đầu cơ nghiệp nhà Hán; hoặc là kẻ đầu trộm đuôi cướp như Chu Nguyên Chương, người mở đầu cơ nghiệp nhà Minh. Còn nhiều trường hợp lắm, khắp đông tây kim cổ. Nhưng khi đã lên ngôi thì tự nhiên họ được mặc nhiên xem như siêu việt hẳn cõi hồng trần, vì có “chân mệnh đế vương”.
Ở Trung Quốc, vua hay hoàng đế được biểu tượng hóa bằng con rồng là linh vật không có thực, và chính vì không có thực nên nó càng thêm phần huyền bí. Hễ cái gì dính dáng đến vua thì được tôn xưng bằng chữ “long” (rồng). Mặt vua thì gọi là “long nhan”, ghế vua ngồi thì gọi là “long ỷ”, áo vua mặc thì gọi là “long bào”, giường vua nằm thì gọi là “long sàng”, cơ thể của vua thì gọi là “long thể”, cái bụng bầu do vua tạo ra cho hoàng hậu hay đám phi tần thì gọi là “long thai”, “long chủng”... Cái gì cũng “long”, đến mức những người Việt có óc khôi hài đã dùng cách đồng âm dị nghĩa hoặc cách nói lái không chuẩn để khôi hài, đồng hồ vua đeo thì gọi là “long-rin” (tên hiệu của một loại đồng hồ tốt), vua sa cơ thì gọi là “long đong”, vua đi đánh bạc thì gọi là “long sền” (lên sòng), vua đi nhảy đầm thì gọi là “long mắc” (lắc mông), vua đi chơi khuya về bị hoàng hậu đóng cửa thì gọi là “long kẻo” (leo cổng), vua bị huyết áp cao thì gọi là “long tăng xên” (lên tăng-xông)...
Đại khái thì đó là những cách giễu cợt bông đùa, nhưng có một lần có người thắc mắc hỏi tôi, mà tôi tin chắc cũng có không ít người thắc mắc như thế, liệu những bộ phận không được “cao quý” trong cơ thể vua và hoàng hậu, vốn được dùng vào những nhu cầu vệ sinh thường ngày, thì gọi bằng cách gì? Và cái hành vi kém phần “tao nhã” đó được diễn tả bằng từ nào? Tôi lắc đầu chịu thua trước câu hỏi cắc cớ đó, dù cũng đoán rằng chúng phải được diễn tả bằng một ngôn ngữ “cao siêu”.
2.Một lần du lịch Trung Quốc, đến tham quan cố đô Trường An của các ông hoàng, bà chúa thời phong kiến, tôi mới vỡ lẽ ra. Và chỉ biết dùng một từ “bái phục” các ông sáng tạo ngôn ngữ của cái xứ đông dân nhất thế giới này. Hóa ra chuyện vua hay hoàng hậu giải quyết vấn đề vệ sinh cũng là chuyện “kinh nhân” chứ không phải là đùa!
Sức khỏe của vua có liên quan đến vận mệnh của giang sơn xã tắc, nên khi vua đi vào nhà xí thì chỉ có cung nữ hoặc quan thái giám theo hầu, và nhất cứ nhất động đều có hiệu lệnh do thái giám truyền đi. Đầu tiên, khi vua cởi áo khoác ngoài thì thái giám hô “Khai long bào!” (開龍袍), cởi áo trong thì thái giám hô “Thoát long khố!” (脫龍褲). Trong lịch sử Trung Quốc còn lại câu chuyện, có một cô cung nữ lo phụ trách cái công việc bị xem là thấp hèn này, tức giữ áo khi vua “khai long bào và “thoát long khố”, văn học gọi là “canh y” (thay đổi y phục), rồi nhờ trí thông minh và thủ đoạn mà trở thành một hoàng hậu gây chấn động cả lịch sử Trung Quốc, đó là Võ Tắc Thiên.
Sau khi vua “thoát long khố”, đến cái sự vụ gay cấn là đi tiểu thì thái giám hô “Đào long cụ!” (掏龍具). Đào (掏) trong tiếng Hán có “lấy ra, móc ra”, kiểu như lấy đồ vật trong túi ra; cụ (具) là “dụng cụ; đồ nghề”. “Long cụ” hiểu nôm na là “đồ nghề của rồng”. Hóa ra ta và Tàu đúng là “tư tưởng lớn gặp nhau”. Đều là “cụ”, là “đồ nghề” cả, chỉ khác nhau ở chữ “long”. Khi vua “trút bầu tâm sự” xong thì thái giám hô “Trí long cụ!” (置 龍 具). Trí có nghĩa là “sắp đặt; sắp xếp” mà ta thường dùng trong “trang trí; bài trí”. Rồi tiếp theo là hô “Phục long khố!” (復龍褲 - mặc lại áo trong), và “Xuyên long bào!” (龍袍 - mặc long bào). Và cuối cùng là câu thường lệ “Cung tiễn hoàng thượng!”.
Với hoàng hậu dĩ nhiên thủ tục cũng phải tôn nghiêm không kém. Chỉ khác là “long” được thay bằng “phượng”. Phượng cũng là loài chim trong huyền thoại. “Long cụ” của vua cũng có đối trọng là “phượng nhãn” (mắt phượng) của hoàng hậu. Đầu và cuối trong quá trình “trút bầu tâm sự” của hoàng hậu được gọi là “khai phượng nhãn!” (開鳳眼 - hé mắt phượng) và “giáp phượng nhãn!” (夾鳳眼 - khép mắt phượng). Chữ giáp cũng có nghĩa như trong “giáp mí” của tiếng Việt.
Các kịch bản “long phượng” đó, ngày nay ta thấy giống như một trò hề trên sân khấu, nhưng thử đặt mình vào bối cảnh cung đình thời xưa, ta không khỏi bái phục người đã sáng tạo ra những ngôn từ hoa mỹ hay ho và tài tình đến vậy để chỉ cho cái việc sinh hoạt đời thường rất chi là thô tục của những bậc đế vương.