Nếp Mường là một loại nếp dài hạt, màu hồng, hơi rằn, thân nở nhiều nhánh cao và cứng. Nếp Mường từng “vang bóng một thời” ở các cánh đồng hai vụ cùng với những loại lúa dài ngày như lúa hẻo, lúa can, ba trăng… Nếp Mường thích nghi với loại ruộng sâu, đất bùn, có độ ẩm cao. Ở các huyện đồng bằng của Quảng Nam, chưa ai nói chắc được nguồn gốc của giống nếp này, chỉ một số ít người nghĩ rằng có thể do đồng bào miền núi mang xuống nên mới có tên gọi là Mường.
Ấn tượng một thời của nếp Mường là thơm từ gốc đến ngọn. Ấy là mùi thơm khi nếp trổ đòng đến mùi rạ chín, và nhất là khi nếp đã thành xôi. Đi ngang qua một đám nếp Mường đang phơi đòng lấp lánh dưới nắng giống như đi giữa ngàn hoa lạ tỏa hương. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao cha ông mình cho rằng cái mùi thơm ấy rất độc nên cấm trẻ con đến gần. Chỉ thuần túy kinh nghiệm mà không sai, hễ con nít đi học hay đi chơi ngang qua đó là… “dính đạn” cảm cúm ngay.
Nếp Mường khi đem nấu xôi thì dẻo thơm không chê vào đâu được. Nhà nào cấy được vài vạt nếp Mường, phơi tốt nắng, đem cất kỹ trong ghè sành để dành nấu xôi chừng chừng vào các dịp tết, giỗ quảy, đám đình thì cứ gọi là… tuyệt. Người vùng biển lên đổi cá, mắm, muối lấy lương thực vẫn cố kiếm cho được mấy ang nếp Mường về để dành là vì vậy. Bán ngoài chợ, thương hiệu nếp Mường vẫn có giá hơn các loại nếp khác.
Ký ức tuổi thơ tôi với nếp Mường là ký ức ướp đầy mùi bùn thơm chứ không tanh. Ở đó, có những con cá tràu, rô, trê, nhét… quẫy vùng đến vui tai, sướng mắt. Do cứng cây, chịu được gió nước, hạt khó rụng nên nếp Mường thường được bà con gặt sau cùng; vạt nếp còn lại trên đồng lúa ruộng sâu, rạ nhiều ấm nước là nơi quy trú lý tưởng cho các loại cá lớn nhỏ. Người ta gặt nếp Mường phía trước là phía sau cả tốp người theo bắt cá bằng đủ vật dụng như nơm, nhủi, khỏa, mò…
Bây giờ nếp Mường chỉ còn trong ký ức. Nếp Mường đã đi qua thời vàng son, nhưng hương sắc dẻo thơm thì mãi còn ở lại - ở lại để làm nao lòng biết bao người thân mỗi lần có giỗ chạp, lễ hội.
TIÊU ĐÌNH