Toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020

22/09/2015 09:14

ĐẨY MẠNH HƠN NỮA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, PHÁT HUY DÂN CHỦ, BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG; HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC, QUYẾT TÂM ĐƯA QUẢNG NAM PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH TỈNH GIÀU MẠNH TRONG KHU VỰC DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

(Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XX tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI)

LTS: Tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh (từ ngày 12 đến 14.10.2015), từ tháng 8.2014, Tỉnh ủy đã thành lập Tiểu ban văn kiện và Tổ biên tập văn kiện để triển khai các bước xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI. Quá trình xây dựng dự thảo Báo cáo Chính trị được thực hiện nghiêm túc, công phu, khoa học, với việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ban, ngành Trung ương; các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; các đồng chí nguyên là lãnh đạo tỉnh; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; chức sắc tôn giáo, doanh nhân của tỉnh và đại hội Đảng cấp trên cơ sở. Dự thảo Báo cáo Chính trị cũng đã được trình và tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị.
Báo Quảng Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XX) trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI để lấy ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XX (NHIỆM KỲ 2010-2015)

Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh chung của cả nước, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, biến động tình hình chính trị trong khu vực, việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX gặp không ít khó khăn, thách thức; nhưng với truyền thống cách mạng kiên cường, phát huy dân chủ, bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết, tự chủ, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần nghiêm túc kiểm điểm làm rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp để khắc phục; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục phát huy trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra.

I- NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

1- Kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô được nâng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân gần 11,5%/năm. GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 41,4 triệu đồng, vượt 6,4 triệu đồng so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra (theo phương pháp tính mới và công bố của Tổng cục Thống kê thì GRDP của tỉnh Quảng Nam tăng bình quân 9,92%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 36,2 triệu đồng). Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 24,8 triệu đồng (1). Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân khoảng 15,2%/năm, trong đó, thu nội địa tăng bình quân 22%/năm, thu xuất nhập khẩu tăng bình quân 6,1%/năm.

Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GRDP giảm từ 22,4% năm 2010 xuống còn khoảng 16%, công nghiệp - xây dựng tăng từ 39,4% lên khoảng 42% và dịch vụ tăng từ 38,2% lên khoảng 42% vào năm 2015. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân 14,7%/năm; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp (giá năm 2010) tăng bình quân hơn 15,2%/năm. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh đã khẳng định được vị thế trên thị trường như: ô tô, giày da, may mặc, bia, nước giải khát, điện sản xuất, linh kiện điện tử, vật liệu xây dựng,... Các ngành thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông, thương mại phát triển tốt. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân hơn 15,3%/năm. Du lịch phát triển cả về quy mô và chất lượng, đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, doanh thu từ du lịch tăng bình quân 24,6%/năm. Tổng giá trị xuất khẩu hơn 2,8 tỷ USD, tăng bình quân trên 22%/năm.

Nông nghiệp đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với thị trường. Việc thực hiện dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng lớn, thủy lợi hóa đất màu, chuyển đổi giống cây trồng, con vật nuôi, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp... đạt nhiều kết quả quan trọng. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình quân 4,9%/năm. Nhiệm kỳ qua, tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể và đạt được kết quả khá tích cực. Số lượng tổ hợp tác, hợp tác xã thành lập mới tiếp tục tăng (2); nội dung phương thức hoạt động nhiều hợp tác xã từng bước được đổi mới, sự liên kết giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với doanh nghiệp, hộ thành viên trong sản xuất và bao tiêu sản phẩm ngày càng mở rộng và hiệu quả.

2- Phát triển vùng được quan tâm, tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng được phát huy; diện mạo thành thị, nông thôn có bước phát triển mới

Trong nhiệm kỳ, đã thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng và lợi thế của các vùng kinh tế của tỉnh.

2.1- Vùng đồng bằng ven biển, hải đảo được xác định là vùng động lực của tỉnh, nên trong nhiệm kỳ qua đã được quan tâm đầu tư phát triển nhằm khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh về tự nhiên, nhất là kinh tế biển, công nghiệp, dịch vụ, du lịch... Các thành phần kinh tế hoạt động trong vùng đã đóng góp trên 90% tổng thu ngân sách trên địa bàn, đây là nguồn lực quan trọng để bố trí các khoản chi đầu tư phát triển trên toàn tỉnh, đồng thời, giải quyết hàng trăm ngàn việc làm mới, góp phần tích cực giảm tỷ lệ thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao thu nhập cho người dân.

Khu Kinh tế mở Chu Lai, một trong năm khu kinh tế trọng điểm ven biển của cả nước được tập trung đầu tư hạ tầng và thu hút nhiều dự án. Đến nay, có 64 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 780 triệu USD, trong đó, riêng từ năm 2010 – 2015, thu hút được 51 dự án đầu tư với tổng giá trị đăng ký đầu tư 489 triệu USD. Các doanh nghiệp đang hoạt động trong Khu kinh tế mở đã tạo ra hơn 12.000 vị trí việc làm mới, đóng góp bình quân trên 60% tổng thu ngân sách hàng năm trên địa bàn tỉnh, nổi bật là Khu liên hợp cơ khí ô tô Chu Lai Trường Hải. Cảng Hàng không Chu Lai đang ngày càng phát huy hiệu quả tốt. Ngoài ra, tỉnh cũng đã quy hoạch xây dựng 4 khu công nghiệp, thu hút 74 dự án với tổng vốn đăng ký trên 10.300 tỷ đồng, giải quyết trên 25.000 lao động, trong đó, hơn 80% là lao động địa phương. Bình quân giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm tạo ra từ các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp này ước đạt trên 21.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng hơn 43% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm đạt 296 triệu USD, chiếm tỷ trọng trên 45% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh (3).

Chuỗi đô thị khu vực đồng bằng ven biển có sự phát triển khá. Thành phố Hội An tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển theo hướng trở thành thành phố văn hóa, sinh thái, du lịch, thu hút lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế. Thành phố Tam Kỳ về cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại II, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Huyện Điện Bàn, cửa ngõ quan trọng phía bắc của tỉnh kết nối với thành phố Đà Nẵng, đã được công nhận thị xã, các đô thị trung tâm các huyện đồng bằng cơ bản đạt chuẩn đô thị loại IV trở lên.

Phát triển tổng hợp kinh tế biển được chú trọng. Với việc tăng nhanh số lượng tàu công suất lớn, đầu tư thâm canh diện tích nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản, giá trị sản xuất của ngành thủy sản liên tục tăng (4). Các chính sách hỗ trợ phát triển ngư nghiệp, ngư dân của Chính phủ đang được tổ chức thực hiện tốt. Du lịch biển ngày càng phát huy hiệu quả với sự phát triển của nhiều dự án du lịch, nghỉ dưỡng ven biển; khai thác du lịch đảo Cù Lao Chàm bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể. Dịch vụ hàng hải được quan tâm đầu tư với cảng biển Kỳ Hà và Tam Hiệp đang hoạt động tốt.

2.2- Vùng trung du, miền núi có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam. Trong 5 năm qua, tỉnh đã tập trung đầu tư tương đối đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông kết nối giữa các trung tâm huyện đến các xã và liên kết giữa các huyện với các tuyến quốc lộ, đường Hồ Chí Minh, góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương miền núi với khu vực đồng bằng, ven biển và với Tây Nguyên.

Mạng lưới điện đã phủ hầu hết các xã. Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang đang từng bước được đầu tư nhằm thúc đẩy giao thương hàng hóa với các tỉnh Nam Lào; cửa khẩu phụ Tây Giang - Kà Lừm cũng đang được xúc tiến đầu tư.

Bảo vệ và phát triển vốn rừng được quan tâm. Ngày càng nhiều doanh nghiệp đã và đang hợp tác với người dân mở rộng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế như cây cao su, cây keo... Hàng ngàn hộ nông dân nhận khoán trồng, chăm sóc cao su, keo đã có thu nhập từ 2,5 đến 3,5 triệu đồng/tháng, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong vùng. Các chính sách về giao đất trồng rừng sản xuất, giao khoán quản lý, bảo vệ rừng, chi trả dịch vụ môi trường rừng... được thực hiện tốt, hạn chế được tình trạng khai thác lâm sản trái phép. Đã nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, ba kích, quế và một số loại cây dược liệu quý.

Các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo của quốc gia và của tỉnh được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ, đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ hộ nghèo ở 9 huyện miền núi giảm đáng kể, từ 57,95% năm 2010 còn 36,98% năm 2014 và dự kiến còn 32% vào cuối năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 5,19%, riêng các huyện 30a (Tây Giang, Nam Trà My, Phước Sơn), bình quân mỗi năm giảm 5,4%.

3- Thực hiện các nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư đạt được những kết quả nổi bật

- Kết cấu hạ tầng được đầu tư ngày càng đồng bộ, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Mạng lưới giao thông được ưu tiên đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện kết nối thuận lợi với các địa phương trong tỉnh, cả nước và quốc tế. Nhiều công trình giao thông trọng điểm được hoàn thành kết nối hệ thống đường tỉnh lộ, huyện lộ, hình thành mạng lưới giao thông thông suốt từ trung tâm tỉnh lỵ đến tất cả các huyện, thị xã, thành phố và trung tâm các xã (5). Hiện nay, đang tập trung phối hợp tốt với các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi (đoạn qua địa bàn tỉnh), đường Đông Trường Sơn...

Hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tiếp tục được quan tâm đầu tư với việc sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới hàng trăm công trình, trong đó, có nhiều hồ chứa nước lớn, kiên cố hóa trên 300 km kênh mương các loại và nhiều công trình thủy lợi hóa đất màu, thủy lợi nhỏ…

Hệ thống thủy điện đã được rà soát quy hoạch đảm bảo an toàn và sử dụng hợp lý tài nguyên nước. Đến nay, các dự án thủy điện đã đi vào hoạt động góp phần bảo đảm an ninh năng lượng của quốc gia, phục vụ phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Mạng lưới điện cao thế, hạ thế được đầu tư mới và nâng cấp, bảo đảm cung cấp điện sinh hoạt đến 98% số xã và phục vụ sản xuất ở các khu, cụm công nghiệp. Hệ thống bưu chính, viễn thông được duy trì, phát triển. Mạng điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh, thuê bao điện thoại, internet tăng nhanh. Đường truyền cáp quang nối đến 98% số xã với chất lượng ổn định, đảm bảo phục vụ nhu cầu thông tin liên lạc của người dân và công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở.

Nhiều công trình có ý nghĩa lớn về văn hóa - xã hội được đầu tư xây dựng như: Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng, Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Quảng trường 24/3... Hệ thống các di tích văn hóa, lịch sử được quan tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo. Hệ thống y tế cơ sở và các bệnh viện công tiếp tục được đầu tư nâng cấp, hoàn thiện. Nhiều hạng mục phục vụ giảng dạy, học tập tại Trường Đại học Quảng Nam và các trường cao đẳng, dạy nghề của tỉnh được nâng cấp, xây dựng mới. Các trường Trung học Phổ thông chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông và hệ thống trường lớp các cấp học phổ thông được đầu tư cơ bản đảm bảo yêu cầu. Các thiết chế văn hóa phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí của nhân dân phát triển đa dạng, đều khắp, đến nay, đã có 100% huyện, thị xã, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa, 60% số xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, 80% số thôn, khối phố có nhà văn hóa đạt chuẩn. Lĩnh vực y tế cũng được quan tâm phát triển, đặc biệt trong việc xã hội hóa y tế, đã có 5 bệnh viện tư đi vào hoạt động, góp phần tích cực trong việc giảm tải ở các bệnh viện công.

Hạ tầng các đô thị trung tâm huyện, nhất là các huyện mới chia tách Nông Sơn, Phú Ninh, Tây Giang, Nam Trà My đã được tập trung đầu tư xây dựng, nhờ đó tạo sự thay đổi rõ rệt diện mạo đô thị ở các địa phương.

- Phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển giáo dục - đào tạo. Mạng lưới trường, lớp được quy hoạch, sắp xếp phù hợp với hệ thống giáo dục quốc dân và tình hình thực tế của địa phương; quy mô các ngành học, cấp học tiếp tục được mở rộng; chất lượng giáo dục không ngừng được nâng cao. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia đạt kết quả tốt, hiện có 411/780 trường đạt chuẩn, đạt tỷ lệ 52,5%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra. Kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở được duy trì tốt, đang triển khai thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trúng tuyển vào đại học, cao đẳng và đạt giải học sinh giỏi quốc gia hàng năm đều tăng.

Mạng lưới trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển nhanh về số lượng cũng như mã ngành đào tạo với 3 trường đại học, 6 trường cao đẳng công lập và tư thục, 45 cơ sở dạy nghề (tăng 3 cơ sở so với năm 2010). Từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình đào tạo, nhất là đào tạo nghề, góp phần thiết thực trong việc đáp ứng yêu cầu lao động cho các doanh nghiệp, làng nghề, các khu, cụm công nghiệp.

Việc thực hiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 và nhiều đề án, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đạt được một số kết quả quan trọng, trong đó thu hút được gần 100 bác sĩ bổ sung vào hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân, cử đi đào tạo sau đại học trên 240 cán bộ, công chức, viên chức… Đề án tuyển chọn 500 sinh viên để tạo nguồn cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đã tuyển chọn, đào tạo và bố trí việc làm 418 trường hợp, đang mở lớp thứ tư với 108 học viên.  

- Cải thiện môi trường đầu tư để huy động các nguồn lực đầu tư phát triển. Công tác quy hoạch được tập trung rà soát, điều chỉnh và bổ sung kịp thời. Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2 (2011 - 2015) đạt được kết quả đáng kể. Đến nay, tất cả các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố đều thực hiện cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân. Một số cơ chế khuyến khích đầu tư đã được ban hành và phát huy hiệu quả như cơ chế ưu tiên phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, các ngành giày da, may mặc và mây tre lá; thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Chính phủ tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa lãnh đạo với doanh nghiệp để giải quyết nhanh các thủ tục cấp phép, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy đầu tư.

Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Quảng Nam các năm gần đây được duy trì ở nhóm khá và tốt trên bình diện chung cả nước (năm 2014 được xếp hạng thứ 14/63 tỉnh, thành phố). Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011 - 2015 đạt hơn 76.700 tỷ đồng, gấp gần hai lần so với giai đoạn 2006 - 2010, tăng bình quân 10,2%/năm; trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư hơn 5.100 tỷ đồng.

4- Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra

Các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong đó, đã chú trọng việc huy động, lồng ghép các nguồn vốn để thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao đời sống người dân tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Vai trò tích cực, chủ động của các tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội ở thôn, xã cùng với vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới được khơi dậy và phát huy. Đã xuất hiện hàng trăm mô hình phát triển sản xuất hàng hóa, xây dựng đời sống mới ở nông thôn có hiệu quả. Đến nay, bình quân tiêu chí đạt chuẩn của 204 xã là 9,6 tiêu chí/xã, tăng 4,78 tiêu chí/xã so với năm 2010 và dự kiến đến cuối năm 2015 có 56 xã (trên 27% số xã) đạt chuẩn nông thôn mới, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XX đề ra.

5- Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, tránh thiên tai

Đã thực hiện tốt việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quản lý bảo vệ đất trồng lúa theo quy định. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, quản lý các dự án được giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nhiều tiến bộ. Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước được chú trọng, xử lý nghiêm việc khai thác lâm sản, khoáng sản trái phép.

Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường đã được thực hiện rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị đã tạo sự chuyển biến tích cực của các cấp, các ngành và nhân dân về bảo vệ môi trường. Công tác quan trắc môi trường được tiến hành thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường được tăng cường. Đã tập trung triển khai thực hiện tốt các dự án về bảo vệ môi trường như: thu gom, xử lý rác thải nông thôn; xử lý nước thải, rác thải ở các đô thị, các khu, cụm công nghiệp; xử lý chất thải y tế… Nhiều mô hình về bảo vệ môi trường được nhân rộng trong nhân dân ở các địa phương như không sử dụng túi ni lông, phân loại rác thải từ nguồn, quản lý rác thải độc hại trong sản xuất nông nghiệp, phục hồi rừng ngập mặn…

Các chương trình, dự án trồng rừng được đẩy mạnh, tỷ lệ che phủ rừng là 50%, đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác nghiên cứu khoa học, dự báo khí tượng, thủy văn, hình thái thời tiết nguy hiểm đã được chú trọng, góp phần đáng kể trong công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh.

6- Khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội có tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư được nâng lên

Hoạt động khoa học - công nghệ đạt được những kết quả đáng kể. Nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mang lại kết quả cao như việc khảo nghiệm dẫn nhập các loại giống cây trồng, con vật nuôi, bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, cây dược liệu, các mô hình áp dụng tiến bộ khoa học phát triển nông thôn, miền núi. Các đề tài trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đã góp phần tạo lập cơ sở khoa học và thực tiễn, giải pháp để định hướng phát triển, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc của tỉnh. Tiềm lực khoa học - công nghệ được tăng cường, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được tập hợp và tham gia tích cực vào các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện nhiệm vụ khoa học - công nghệ; giám định xã hội ngày càng gắn với yêu cầu thực tiễn. Các chương trình hợp tác về khoa học - công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, khuyến công, khuyến nông, hợp tác quốc tế... từng bước đi vào chiều sâu, có trọng tâm và phát huy hiệu quả.

Sự nghiệp y tế không ngừng được nâng lên cả về số lượng, chất lượng dịch vụ và mạng lưới. Các tuyến y tế trên toàn tỉnh không ngừng được củng cố, kiện toàn và phát triển (6). Chỉ số sức khỏe của người dân được cải thiện đáng kể, tuổi thọ bình quân đạt 74,2 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 18,2% năm 2010 xuống 14% năm 2015. Y tế dự phòng được chú trọng nên không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi đã được triển khai thực hiện đầy đủ. Đến nay, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 78%. Công tác thanh tra y tế, quản lý hành nghề y dược tư nhân được chú trọng.

Sự nghiệp văn hóa được quan tâm đúng mức. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được các cấp tập trung chỉ đạo triển khai tích cực, có chất lượng, trọng tâm là xây dựng gia đình, tộc họ, thôn, bản, cơ quan văn hóa đã tác động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Việc thành lập Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Đất Quảng của tỉnh đã động viên, khích lệ hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm của đội ngũ văn nghệ sĩ. Hoạt động văn nghệ quần chúng ở cơ sở diễn ra sôi nổi, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia. Phong trào thể dục - thể thao quần chúng được đẩy mạnh, thể thao thành tích cao có nhiều tiến bộ. Công tác trùng tu, tôn tạo, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể các dân tộc trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng và đạt được kết quả. Việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đã được các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt.

Công tác thông tin - truyền thông, báo chí được tăng cường. Việc quy hoạch mạng lưới báo chí, xuất bản của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được thực hiện nghiêm túc, phù hợp với định hướng của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương. Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh được đầu tư phát triển về nhân lực và trang thiết bị nên chất lượng nội dung thông tin được nâng cao, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao dân trí, định hướng dư luận xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.

Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo được triển khai quyết liệt, đồng bộ. Các chương trình, chính sách giảm nghèo của Chính phủ được vận dụng và chỉ đạo quyết liệt, nhất là đối với các huyện 30a (Phước Sơn, Nam Trà My và Tây Giang). Ngoài ra, tỉnh đã ban hành chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững và được triển khai thực hiện có hiệu quả. Cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội ở các huyện, xã, thôn nghèo được quan tâm đầu tư. Người nghèo đã có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, từ 24,2% năm 2010 còn 8,9% năm 2015, bình quân giảm hơn 3%/năm, đạt chỉ tiêu đề ra.

 Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với thu hút đầu tư, giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất để tạo nhiều việc làm mới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề toàn tỉnh đạt khoảng 45%. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 40,7% năm 2010 đã tăng lên 49,9%, bình quân mỗi năm chuyển dịch hơn 1,4% lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong 5 năm qua, đã giải quyết việc làm mới cho hơn 200.000 lượt lao động, đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội XX. Công tác bảo hiểm xã hội được tăng cường, đạt kết quả tốt.

Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia đình chính sách được chú trọng. Đã hoàn thành giai đoạn 1 về hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở đối với người có công (9.500 nhà); thực hiện tốt công tác lập hồ sơ, thủ tục đề nghị Trung ương phong, truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng (7), công tác chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, người có công cách mạng và giải quyết các hồ sơ đối tượng hưởng chính sách còn tồn đọng. Đời sống đại bộ phận gia đình chính sách đã được cải thiện đáng kể. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, chỉnh trang nghĩa trang và nhà bia ghi tên liệt sĩ tiếp tục được đầu tư.

7- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân ngày càng vững chắc; công tác đối ngoại được tăng cường

Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thường xuyên và được tăng cường vững chắc. Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân” được chú trọng xây dựng. Lực lượng vũ trang địa phương được xây dựng vững mạnh toàn diện, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các các tình huống xảy ra; chủ động trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng được triển khai đồng bộ, hiệu quả, thiết thực. Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu, bảo đảm chất lượng; tỷ lệ đảng viên trong thanh niên nhập ngũ đạt và vượt chỉ tiêu. Chất lượng huấn luyện, diễn tập, hội thi, hội thao được nâng lên rõ rệt; hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện, diễn tập chiến đấu trị an cấp xã; tổ chức tốt các cuộc diễn tập thực nghiệm với quy mô lớn để Trung ương rút kinh nghiệm chỉ đạo trên phạm vi toàn quốc.

Thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, an ninh tôn giáo, an ninh nông thôn, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh kinh tế; chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, điều tra xử lý kịp thời và nghiêm minh các loại tội phạm, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội; tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được đẩy mạnh và đổi mới, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và giữa quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế - xã hội được coi trọng.

Công tác đối ngoại phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Mối quan hệ đặc biệt với tỉnh Sê Kông (Lào) được giữ vững và ngày càng sâu sắc, đồng thời, quan hệ hợp tác với các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan được mở rộng nhằm mục tiêu hình thành hành lang kinh tế Đông - Tây qua cửa khẩu Nam Giang - Đắk Tà Oọc. Tăng cường và thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều địa phương nước ngoài. Công tác đối ngoại nhân dân được tăng cường, duy trì tốt quan hệ với các tổ chức hữu nghị nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ, sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác quản lý nhà nước về biên giới, lãnh thổ quốc gia, đoàn ra, đoàn vào được thực hiện tốt. Công tác thông tin đối ngoại, giao lưu văn hóa với nước ngoài được chú trọng.

8- Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách tư pháp đạt được nhiều kết quả

Tỉnh ủy đã thành lập Ban Nội chính Tỉnh ủy để thực hiện công tác tham mưu và thực hiện một số nhiệm vụ công tác nội chính của Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tập trung triển khai và đạt được kết quả theo tinh thần Chỉ thị số 41-CT/TU của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh; nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có chuyển biến tích cực, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập và kiểm soát việc kê khai tài sản nghiêm túc, đúng các quy định của Đảng, Nhà nước. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách, mua sắm tài sản công, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất, các khoản đóng góp của nhân dân, các chế độ, định mức theo tiêu chuẩn… Công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến tham nhũng được tăng cường, góp phần ngăn chặn, hạn chế tham nhũng, kịp thời xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật.

Công tác thanh tra được tăng cường. Các sai phạm được phát hiện qua thanh tra được xử lý nghiêm minh; đồng thời, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân trên địa bàn tỉnh có chuyển biến tích cực; kịp thời xử lý, ngăn chặn các trường hợp khiếu kiện đông người.

Triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 và Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó, có gắn với công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ đảng và giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện đã giải quyết được tình trạng tồn đọng án ở Tòa án nhân dân tỉnh. Nguyên tắc độc lập trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và yêu cầu về tăng cường tranh tụng tại phiên tòa đạt kết quả tích cực, không để xảy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm. Việc thực hiện chính sách đối với cán bộ tư pháp, kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo đúng quy định, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Việc xã hội hóa hoạt động công chứng đã có thành công bước đầu. Công tác thi hành án dân sự có nhiều cố gắng và đạt được kết quả.

9- Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp được nâng lên, công tác cải cách hành chính đạt được một số kết quả tích cực

Bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn, nhờ đó đã thực hiện đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Trung ương, đồng thời, quyết định và triển khai có hiệu quả nhiều chính sách theo thẩm quyền. Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân các cấp đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm người đại biểu của nhân dân; công tác tiếp công dân định kỳ, tiếp xúc cử tri, giải quyết những đề xuất, kiến nghị của cử tri được tăng cường và đổi mới. Thông qua các kỳ họp và các cuộc kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân theo luật định đã góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh.

Cải cách hành chính được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nhất là việc cải cách thủ tục hành chính, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Kỷ cương, kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có chuyển biến tích cực ở tất cả các cơ quan chính quyền địa phương từ tỉnh đến cơ sở, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của tỉnh. Việc thực hiện cơ chế một cửa và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc ở các cơ quan, đơn vị đem lại kết quả thiết thực, rút ngắn thời gian xử lý công việc, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp và giao dịch của các tổ chức, cá nhân. Bước đầu triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm; tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị hành chính sự nghiệp.

10- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội được củng cố về tổ chức, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động

Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt trong hệ thống cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Các chủ trương, chính sách được ban hành đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo tinh thần Quy chế dân chủ ở cơ sở được đa số các cấp ủy, chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện tốt.

Lực lượng công nhân đang lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động có chuyển biến tích cực, nhất là trong các doanh nghiệp lớn. Lực lượng nông dân ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng được tăng cường, được tạo điều kiện thuận lợi trong sáng tạo, nghiên cứu khoa học. Đội ngũ doanh nhân phát triển mạnh về số lượng, trình độ quản lý, kinh doanh được nâng lên. Thế hệ trẻ tiếp tục phát huy tốt truyền thống cha anh, đi đầu, xung kích trên nhiều lĩnh vực. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được phát huy. Lực lượng cựu chiến binh tiếp tục phát huy tốt truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tham gia tích cực trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội.

Các cấp, các ngành đã quan tâm và thực hiện đầy đủ các chính sách về dân tộc, tôn giáo. Đồng bào các dân tộc thiểu số luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền, tích cực lao động, học tập nhằm nâng cao dân trí, cải thiện điều kiện sống; giữ gìn bản sắc văn hóa, tham gia tích cực trong việc nhận quản lý, bảo vệ rừng và từng bước hợp tác tốt với các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế. Đồng bào có đạo trên địa bàn tỉnh chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần tích cực trong việc xây dựng đạo đức xã hội.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội của tỉnh thường xuyên được kiện toàn về tổ chức; đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời, đổi mới hoạt động hướng về cơ sở, lấy địa bàn khu dân cư làm cơ sở hoạt động theo tinh thần Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Bên cạnh đó, tích cực tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội; vận động thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, cũng như các phong trào, các cuộc vận động do hội, đoàn thể phát động; bước đầu triển khai và thực hiện Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân nhân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

11- Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, trọng tâm là tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được những kết quả quan trọng

Nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đã tạo chuyển biến trong nhận thức về công tác xây dựng Đảng trong cán bộ, đảng viên về sự cấp bách phải chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Việc tổ chức thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về  tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội từ tỉnh đến cơ sở đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với các biện pháp, cách làm cụ thể, sát thực tế, hiệu quả.

Qua việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã giải quyết được nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc trong Đảng và nhân dân; qua đó, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị để lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị; đồng thời, giáo dục cán bộ, đảng viên, hội, đoàn viên thường xuyên có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Nhờ vậy, đã từng bước siết lại kỷ luật, kỷ cương, góp phần ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đã có nhiều tổ chức cơ sở đảng, đoàn thể từ yếu kém vươn lên trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã chú trọng nêu cao tinh thần trách nhiệm, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được coi trọng. Đã tổ chức nghiêm túc việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương; tham gia tổng kết lý luận thực tiễn qua 30 năm đổi mới và kịp thời sơ kết, tổng kết 5 năm, 10 năm thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và Tỉnh ủy. Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng được các cấp ủy quan tâm, kịp thời xử lý những vấn đề nổi cộm, ổn định an ninh tư tưởng (8). Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được thực hiện tốt (9). Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử đấu tranh cách mạng ngành, địa phương và giáo dục truyền thống cách mạng được các cấp ủy thực hiện đạt kết quả. Chất lượng truyền đạt và học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có chuyển biến tốt. Công tác lãnh đạo, định hướng hoạt động của báo chí được quan tâm, chấn chỉnh kịp thời các thông tin phản ánh sai lệch, góp phần định hướng tư tưởng trong xã hội.

- Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo, thực hiện. Tỉnh ủy đã ban hành lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/4/2013 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh đã phát huy chức năng, vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật Đảng được tập trung chỉ đạo, kiểm tra; qua đó, kịp thời ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống… Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh bình quân trong nhiệm kỳ đạt 77%, tăng 2% so với Nghị quyết. Số đảng viên được kết nạp hằng năm tăng cả về số lượng và chất lượng, cả nhiệm kỳ, kết nạp được 17.828 đảng viên, vượt 27,34% so với Nghị quyết Đại hội XX, góp phần xóa thôn trắng đảng viên, tăng tỷ lệ đảng viên giữ vị trí chủ chốt ở thôn, khối phố.

 Công tác cán bộ được xác định là một đột phá trong công tác xây dựng Đảng. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về công tác cán bộ giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020 và các đề án, chính sách cụ thể để triển khai thực hiện. Các khâu trong công tác cán bộ được thực hiện nền nếp. Công tác quy hoạch cán bộ ở cả 3 cấp cơ bản bảo đảm tỷ lệ, cơ cấu, chất lượng, có tính khả thi là tiền đề quan trọng để chuẩn bị nhân sự của hệ thống chính trị cho nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đã chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp; chính sách về đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số theo Nghị quyết 13 của Tỉnh ủy; tuyển chọn sinh viên, đào tạo lý luận chính trị để cung cấp nguồn cán bộ cấp cơ sở và khu vực miền núi theo Đề án 500… Nhờ đó, chất lượng đội ngũ cán bộ ở cả 3 cấp tăng lên (10), giúp cấp ủy đảng chủ động trong công tác bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, khắc phục cơ bản tình trạng hụt hẫng cán bộ trên bình diện chung của tỉnh. Chế độ, chính sách đối với cán bộ nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc được tổ chức thực hiện tốt, góp phần quan trọng giải quyết đầu ra cho cán bộ, công chức cơ sở. Hoàn thành việc xét công nhận người hoạt động cách mạng trước tháng 8/1945 được bảo đảm đúng trình tự, thủ tục. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý và chủ trương tăng thêm chức phó bí thư, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện để luân chuyển và đào tạo cán bộ.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Việc thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị được tổ chức thực hiện tốt, phục vụ kịp thời cho công tác cán bộ và phát triển đảng viên.

- Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường. Toàn Đảng bộ đã có sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm và tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đúng quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Các cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát đúng Điều lệ Đảng và quy định của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và đạt được kết quả quan trọng (11). Số lượng, chất lượng các cuộc kiểm tra được nâng lên đáng kể. Bên cạnh việc tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm, ủy ban kiểm tra các cấp đã thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ “kiểm tra chấp hành”, mở rộng công tác giám sát, gắn kiểm tra, giám sát tập thể với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị. Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã tác động tích cực trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phòng ngừa, hạn chế sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Qua kiểm tra, giám sát đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tồn đọng nhiều năm ở cơ sở, ổn định tình hình, thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị; góp phần giáo dục, ngăn ngừa hạn chế, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên; tạo được niềm tin của tổ chức đảng, đảng viên, nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Công tác dân vận chuyển biến tích cực và có đổi mới. Các cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị làm tốt việc triển khai, quán triệt, xây dựng chương trình hành động, thực hiện kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận (12) và Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị (khóa XI) về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện giám sát và phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đã tăng cường lãnh đạo công tác đối thoại với nhân dân và thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở, đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”, nhất là trong xây dựng nông thôn mới... Công tác dân vận của các cấp chính quyền, trong các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang đã có nhiều chuyển biến tích cực; việc chỉ đạo, điều hành, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước được triển khai đồng bộ, có hiệu quả, từng bước đổi mới theo hướng gần dân, sát dân, hướng về cơ sở. Chính quyền các cấp đã thực hiện tốt việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về công tác dân vận, xây dựng quy chế phối hợp về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dân vận.

Các cấp ủy đảng đã chỉ đạo ban dân vận cùng cấp tích cực theo dõi, định hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội,  tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh và làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, góp phần thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.

Nhìn chung, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh nỗ lực vượt qua khó khăn, tranh thủ thời cơ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, đồng thời, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và xã hội, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của tỉnh, từ một tỉnh khó khăn vươn lên trở thành địa phương phát triển khá ở khu vực miền Trung, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, diện mạo nông thôn, đô thị có đổi mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khá cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thu ngân sách trên địa bàn vào nhóm các tỉnh khá của cả nước (năm 2014 xếp thứ 15/63 tỉnh, thành phố). Một số ngành công nghiệp phát triển đạt được quy mô lớn, giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng tăng. Các nhiệm vụ đột phá đạt được những kết quả quan trọng, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, tạo thế và lực để phát triển kinh tế - xã hội mạnh hơn trong giai đoạn tới.

Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục mầm non dưới 5 tuổi. Thiết chế văn hóa được tăng cường và phát huy hiệu quả. GRDP bình quân đầu người cao hơn 2,4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm. Đã hạn chế được tình trạng phá rừng, khai thác khoáng sản trái phép; tích cực triển khai các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững đạt được kết quả quan trọng.  

Ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị về phòng, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Công tác thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, xử lý kịp thời các sai phạm được phát hiện qua thanh tra. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đảm bảo kịp thời, đúng pháp luật, ngăn chặn có hiệu quả các vụ khiếu kiện đông người. Công tác cải cách tư pháp đạt được kết quả tích cực.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Việc tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được kết quả tích cực. Dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được phát huy. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội không ngừng được củng cố. Tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên.

II- NHỮNG HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

1- Trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

Kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng khá, nhưng có một số nội dung chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần th??

(0) Bình luận
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO