(Xuân Tân Sửu) - Từ thuở sơ khai, hình tượng con trâu đã gắn liền với đời sống của con người. Con trâu tượng trưng cho sức mạnh vô song với cặp sừng cong dài, trở thành biểu tượng cho quyền năng của tạo hóa cũng như khả năng sáng tạo của con người.
Hình tượng con trâu trong các nền văn hóa cổ, kể cả Champa, được thiêng hóa để hỗ trợ cho con người có thêm sức mạnh chiến đấu với thiên nhiên. Và thông qua các nghi thức tế tự nó đại diện cho con người mang cái “tiểu ngã” cá nhân hòa nhập vào “đại ngã” vũ trụ.
Sức mạnh & bóng tối
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong văn hóa Ấn Độ từ thời cổ đại, con trâu và hình ảnh sừng trâu là biểu thị cho sự liên hệ với thần linh, hoàng gia, địa vị xã hội, hoặc uy quyền của cá nhân. Điều này minh chứng qua hình tượng con trâu khắc trên những con dấu phát hiện ở thung lũng Indus, trên đó thể hiện một vị thần ngồi trong tư thế hoa sen, đầu thần trang trí cặp sừng trâu. Tác phẩm này xuất hiện vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên.
Theo quan niệm Ấn Độ giáo, hình tượng con trâu đại diện cho cả hai phẩm chất tích cực và tiêu cực của thần linh và con người. Tính tích cực của con trâu được ghi chép trong bộ cổ thư nổi tiếng là kinh Vệ Đà. Trong đó, con vật tượng trưng cho nhiều phương diện của thần linh với sức mạnh vô song, luôn hỗ trợ loài người, với dáng vẻ oai phong, dữ dội, biểu tượng cho sức mạnh đạo đức tâm linh. Tiêu biểu là hình tượng con trâu nước, là vật cưỡi của Diêm vương hay Yama, ngài là chúa tể của cõi âm và cũng chính là chúa tể của công lý vũ trụ.
Về mặt tiêu cực, hình tượng con trâu biểu trưng cho bóng tối (tamas), si mê, ngu dốt, tham lam và bản chất ma quỷ của con người, tượng trưng bằng quỷ đầu trâu Mahisasura. Do vậy, Ấn Độ giáo thờ nữ thần Mahisasura-mardini, là biểu tượng của sức mạnh trí tuệ để khuất phục quỷ đầu trâu; bà là sự phối hợp âm tính tinh hoa của ba vị thần tối thượng là thần Sáng tạo Brahma, thần Bảo tồn Visnu và thần Hủy diệt Siva.
Vì quỷ Mahisasura đã xuất hiện với lời thề là không có một nam thần nào có thể khắc phục được lòng tham dục của nó, ngoại trừ một nữ thần, cho nên nữ thần Durga hay thần Mẹ đã xuất hiện theo thỉnh nguyện của các thần nam để khuất phục con quỷ này.
Ân phước từ thần linh
Theo các nghi lễ Vệ Đà, trâu được hiến tế nhằm xoa dịu sự tức giận của thần linh và cầu xin ân phước. Cũng giống như ngựa, trâu là vật hiến tế chính trong lễ tế các hóa thân của thần Siva - đấng Hủy diệt và Tái tạo vũ trụ.
Hằng năm có một lễ hội đặc biệt dành cho nữ thần Durga - vợ của Siva, gọi là Durga-puja. Mọi tín đồ Ấn Độ giáo đều tham gia lễ hội tôn kính này để cầu xin những điều tốt lành nhất cho cuộc sống và xin hối cải những tội lỗi cũng như xa lánh những tật xấu mang lại hệ lụy bất hạnh cho chính mình.
Lễ hội Durga-puja tổ chức vào khoảng tháng 9, tháng 10 dương lịch và kéo dài trong 10 ngày; trong lễ hội này nghi thức tế trâu được diễn ra tại đền thờ Siva-Durga ở nhiều nơi trên đất Ấn.
Trong nghệ thuật điêu khắc Champa, hình tượng nữ thần Durga-Mahisasura xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 9. Đó là một pho tượng tròn thể hiện nữ thần trong tư thế đứng trên một bệ vuông có chạm đầu trâu, phát hiện ở Bích La, Quảng Trị. Hình tượng Durga trở nên phổ biến hơn trong nền nghệ thuật này vào thế kỷ 11 - 12, khi Champa có những mối tương tác hải thương và văn hóa sâu sắc hơn với miền Nam Ấn.
Vào thời kỳ nghệ thuật này, đáng chú ý là bức phù điêu trán cửa (tympan) của ngôi đền chính Pô Nagar Nha Trang, thế kỷ 11. Bức chạm mô tả nữ thần múa trên lưng con trâu ngẩng cao đầu chiêm ngưỡng và kính sợ uy quyền của ngài. Một phù điêu khác của nhóm tháp Chiên Đàn, thế kỷ 12, thể hiện nữ thần Durga sáu tay cầm vũ khí nhảy múa uy dũng trên lưng trâu. Hình tượng Durga xuất hiện trên ngôi đền Champa vừa để hộ trì chốn linh thiêng vừa để nhắc nhở tín đồ cảnh tỉnh trước những thế lực đen tối ẩn tàng trong tâm thức của chính mình.
Mối tương đồng
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hình tượng con trâu trong Ấn Độ giáo đã được kế thừa và tiếp biến từ tục thờ trâu trong văn hóa bản địa của các cư dân thời tiền Ấn Độ giáo tại lục địa Ấn Độ cũng như tại Đông Nam Á. Cư dân từ thời cổ sơ đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa con trâu và con người khi phải đối mặt với môi trường sống khắc nghiệt của thiên nhiên nhiệt đới. Ngày nay, lễ hiến trâu vẫn được tổ chức trong nhiều cộng đồng cư dân ở đây.
Trong lịch sử, người Cơ Tu là “anh em kết nghĩa” của người Chàm trong mối tương tác kinh tế và văn hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Mùa Xuân năm 2014, chúng tôi được tham gia một buổi lễ đâm trâu của người Cơ Tu tổ chức tại huyện Tây Giang. Con trâu hiến tế được buộc vào cột đâm trâu hay xanur trang trí rực rỡ; cột xanur tượng trưng cho cột vũ trụ liên kết đất với trời; còn trâu đại diện cho con người.
Vào đêm trước lễ chính, chúng tôi nhìn thấy các già làng và phụ nữ cao tuổi đã đến khấn nguyện trâu để nó thay mặt người chuyển những mong ước và thỉnh cầu của họ lên các “yàng”. Sau khi con trâu ngã xuống, phụ nữ mang những tấm “tuốt”, vải dệt thổ cẩm của người Cơ Tu, đắp lên trâu để ca ngợi và biết ơn sự hy sinh của nó cho dân làng; họ cũng hốt đất có dính máu trâu đem về đặt trước cửa nhà để cầu mong ân phước mà các “yàng” đã ban cho làng thông qua lễ hiến tế.
Lễ của người Chăm
Lễ hiến trâu vẫn được bảo lưu trong cộng đồng người Chăm sinh sống ở vùng Ninh Thuận và Bình Thuận gồm cả Chăm Bà-la-môn và Chăm Bà-ni. Lễ hiến trâu của người Chăm được tổ chức tùy theo mục đích, có thể là lễ của gia đình, của dòng tộc hoặc của cộng đồng. Mặc dầu có nhiều lễ hiến trâu khác nhau nhưng đều dựa theo nghi thức đã được quy định chung, chỉ khác về địa điểm và thời gian tổ chức, chư thần được hiến tế, mục đích cầu xin, v.v.
Theo người Chăm, con vật hiến sinh phải là trâu đực, có độ tuổi từ một năm rưỡi đến hai năm; toàn thân có sắc đen không bị lốm đốm, dị tật hay tì vết. Trâu hiến tế của người Chăm không được đâm bằng mũi giáo mà được thực hành bằng một thanh gươm bởi vị “thầy Cả” của đạo Bà-ni gọi là “Gru Acar”. Sau lễ tế, thịt trâu được chia cho chức sắc và tu sĩ điều hành buổi lễ.
Trong các lễ hiến trâu của người Chăm ở Ninh Thuận thì lễ hiến trâu tổ chức tại núi Đá Trắng là lễ hội lớn nhất, gọi là “Kabaw Yang Patao”. Bảy năm mới tổ chức một lần, lễ có sự tham gia của toàn thể cộng đồng và con vật hiến tế phải là con trâu trắng. Lễ được điều hành bởi “thầy Hamua Ia” hay ông cai lệ chăm sóc nguồn nước của thần linh; “thầy Kadhar” kéo đàn Rabap và ca tụng thần linh; và “bà Bóng” hay “Muk Pajau” để múa thiêng và dâng lễ vật cho thần linh.
Vì tính quan trọng của lễ hội tế trâu này nên người Chăm truyền tụng câu tục ngữ: “Bilan năm yang tikuh/Bilan tajuh yang patau”. (Tháng sáu cúng thần chuột phá hoại mùa màng/Tháng bảy cúng thần chằn tinh ở núi Đá Trắng.)