Những năm đầu của thế kỷ XX, hoặc có thể trước đó nhiều thập kỷ, khi đường bộ chưa đóng vai trò huyết mạch giao thông nối liền quê xứ giữa các miền ngược xuôi thì đò giang sông nước luôn là nhịp nối bến bờ và tình yêu giữa nguồn và biển.
Sông dài cá lội biệt tăm
Người dưng có nghĩa mấy năm em cũng chờ.
Sông quê. Ảnh: ANH TUẤN |
Dọc các triền sông Vu Gia, Thu Bồn… về Đại Lộc, người ta hình thành nên những bến đỗ cho khách thương hồ giao lưu, trao đổi hàng hóa với dân bản địa. Tên các chợ Phú Thuận, Bến Dầu, Phú Đa, Phường Rạnh… ngã sông Thu; hay Gia Cốc, Phường Đông, Hà Nha, Bãi Trầu, Hội Khách… miệt Vu Gia đều tấp nập, sầm uất người mua kẻ bán. Các thương lái từ Hội An, Vĩnh Điện, Cửa Hàn… men theo dòng chảy của các con sông, họ đi trên những chiếc ghe bầu, căng buồm ngược nguồn, mang theo nào vải vóc, mắm muối, cá biển; các sản phẩm sành sứ… ghé hết chợ này đến chợ khác dọc sông. Rồi sau đó họ mua lại của người bản địa nhiều thổ sản miệt nguồn như trầu lá, lòn bon, dầu rái, trái cây, các loại gỗ quý… đem về cung cấp cho miền xuôi phố thị; và có khi mang về cả những mối tình thầm kín, những lời thề hẹn.
Rồi khi đã có những bãi chợ đông vui, ngựa xe tấp nập, đời sống khá lên, hội hè, lễ tết được tổ chức bài bản rềnh rang. Đến bây giờ vẫn còn ngân vọng trong chúng ta những dấu ấn không phai mờ về tên gọi một thời của mỗi vùng đất, mỗi làng quê…
Từ nhiều nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy, và qua những di chỉ để lại của người xưa đã cho thấy: Lưu vực vùng đất dọc hạ lưu sông Vu Gia ngày xưa là một trong những chiếc nôi văn hoá - giáo dục của cha ông ta, từ cái thời “mang gươm đi mở cõi”? Khi còn là phên giậu biên cương phía Nam của người Đại Việt. Những tên đất, tên làng: Cựu Thị, La Vân, Lâm Yên, Phường Đông, Gia Cốc… mỗi tên gọi kèm theo những câu chuyện kể, những giai thoại về một vùng quê ven sông sầm uất thuyền bè, hàng hóa của những thương nhân, miền biển tụ tập về đây buôn bán, giao thương.
Dọc theo sông Vu Gia rẽ về ngã Đại Lộc, qua Gò Nổi đến đất Giao Thủy tằm tơ, ngược dòng chừng mươi cây số là đến chợ Phường Đông (Đại Phong). Chợ nằm bên bến sông. Các bậc cao niên nhất làng Mỹ Hảo bảo rằng, khi họ sinh ra thì bãi chợ Phường Đông đã có rồi. Ngày ấy bến sông thuyền bè tấp nập đông vui. Sở dĩ gọi là chợ Phường Đông vì tất cả thương lái đem hàng hóa đến đây trao đổi đều là người miệt xuôi, có cả người Hoa từ phía đông ngược thuyền buồm ghé bến. Chợ Phường Đông là trung tâm giao thương của cả vùng tây nam Đại Lộc thời bấy giờ. Từ đây, các thương khách men theo những con đường bộ, dùng ngựa thồ chở hàng hóa, sản vật cung cấp cho cư dân các vùng phía tây thượng nguồn Vu Gia như Lộc Thượng, An Điềm, Bãi Trầu, Hội Khách; hay đi qua Truông Chẹt rẽ về An Chánh, Bến Dầu, Phú Đa, Phường Rạnh…
Qua chợ Phường Đông, ngược thuyền về phía tây, là đến đầu nguồn Vu Gia, vùng tiếp giáp giữa hai miền Kinh - Thượng. Gặp những tên đất Bãi Trầu, Hội Khách, nghe bao câu chuyện thú vị về những cuộc gặp gỡ, trao đổi buôn bán giữa người dân tộc thiểu số và khách miền xuôi. Thường thì chừng năm bữa, nửa tháng, những cư dân miền núi gùi những gùi trầu lá, cùng với các sản vật núi rừng khác đi bộ cả ngày đường đến đây đổi cho thương lái người Kinh lấy muối, mắm, gạo, và các thức tiêu dùng thường ngày. Các thương lái sau khi trao đổi hàng hóa với người Thượng, dong thuyền buôn đầy ắp lâm sản từ Bãi Trầu - Hội khách về ghé bến Hà Nha - Lam phụng, nơi nhộn nhịp trên bến dưới thuyền trước khi xuôi mái chèo lui về phố thị, mang theo bao chuyện trên nguồn dưới biển. “Gió nam thổi xuống lò vôi/ Ai đem tin cho bạn ta có đôi bạn buồn/ Dời chưn bước xuống ghe buôn/ Sóng bao nhiêu dợn dạ chàng buồn bấy nhiêu…”.
Ngả rẽ lên sông Thu cũng đông vui không kém. Các thuyền buôn ghé chợ Phú Thuận (Đại Thắng), rồi đến Bến Dầu (Đại Thạnh), một trung tâm giao thương có từ rất sớm của vùng đất này.
Theo gợi ý của một vài người bạn, tôi về Đại Thạnh tìm hiểu cội nguồn phát tích của chợ Bến Dầu. Ông Trần Cẩm, năm nay đã ngoài chín mươi tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn. Ông cho biết khi chín, mười tuổi đã theo mẹ đi chợ Bến Dầu. Theo ông, chợ ngày ấy cũng đã rất đông người đi lại mua bán xôn xao một vùng sông nước. Người ta hái chè từ An Bằng gánh xuống; chở dầu rái từ Thọ Lâm, Hữu Niên, Tây An, Khe Tân qua. Những chiếc ghe dợi xuôi từ nguồn xuống nhiều loại gỗ quý như: kiền kiền, lim, xoay, gõ, trai…để rồi từ chợ Bến Dầu này, các thương lái lấy hàng, lâm sản chở về tận Cửa Đợi, Cửa Hàn,… Trước khi lên thuyền mát mái, còn nhắn lại câu thương câu nhớ với cô gái bản xứ rằng: “Anh về ba bữa anh lên/ Em đừng úp mặt vô phên khóc thầm!...”.
Cũng theo ông Trần Cẩm, người nội tổ của ông có tên úy là Xã Cẩn, làm lý trưởng vùng Bến Dầu thời ấy. Chính ông Xã Cẩn là người sáng lập ra bến chợ này. Như vậy, tính về thời gian, chợ Bến Dầu đã tồn tại trên một thế kỷ có dư. Ông còn kể rằng, ngày ấy chợ đông buổi sáng thì buổi chiều cách đó không xa, phía cuối làng Phú Hanh, một bãi chợ khác có tên Bàu Toa cũng nườm nượp người qua lại bán buôn. Bàu Toa có một gánh hát tuồng nổi tiếng một thời do ông Bốn Quản (Nguyễn Nho Quản), cha của Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Nho Túy sáng lập. Gánh hát đã tồn tại hơn một phần tư thế kỷ. Đi lưu diễn nhiều nơi, có khi ra đến tận kinh đô Huế. Từ gánh hát này đã đào tạo những lớp nghệ sĩ tài danh, có tên tuổi trong sự nghiệp nghệ thuật hát bội của đất nước. Ngoài Nguyễn Nho Túy, gánh tuồng Bàu Toa còn có những học trò là “kép” diễn xuất sắc như Năm Thiều, Tư Bửu, Sáu Lai, Phó Phẩm, hề Doan…; các “đào” diễn tài danh như bà Xã Tăng (em gái nghệ sĩ Đội Tảo), bà Dấn, bà Bảy Phòng, bà Loan, bà Hậu… Tất cả những nghệ nhân ấy đã để lại cho đời nhiều giai thoại, nhiều dấu ấn đáng nhớ về một thời vang bóng trên quê xứ Đại lộc.
Đất và người là vậy đó. Những dòng sông bây giờ vẫn chảy như tự ngàn xưa, dù không còn trong xanh mà đỏ ngầu hoài niệm về một thời. Đường sá đã thênh thang hơn thành huyết mạch đem văn minh về đến bao vùng quê xưa từng hiu hắt đói nghèo. Từ lâu đã vắng những cánh buồm đỗ bến, đã không còn nghe câu hát: “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non em gởi xuống cá chuồn anh gởi lên…” tràn đầy đau đáu nhớ mong.
NGUYỄN HẢI TRIỀU