“Với quy mô dân số lớn thứ 3 tại ASEAN và tỷ lệ 41% dân số thuộc “Thế hệ vàng” (dưới 24 tuổi), lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam hứa hẹn tiềm năng đầu tư rất lớn” - (Savills Việt Nam).
Đầu tư vào giáo dục đang trở thành một ngành hấp dẫn tại Việt Nam.Ảnh: PHƯƠNG THẢO |
Tiềm năng lớn
Theo nghiên cứu của Savills Việt Nam, trong giai đoạn 2014 - 2017, trung bình mỗi năm có khoảng 1 triệu lao động Việt Nam (VN) chuyển từ ngành nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Xu hướng đô thị hóa sẽ tiếp tục lan rộng với tốc độ chóng mặt, phát triển giáo dục quốc gia vì vậy trở thành ưu tiên hàng đầu để nâng cao kỹ năng lực lượng lao động và tăng năng suất lao động.
Với quy mô dân số lớn, hơn 95 triệu người và cơ cấu dân số trẻ, VN đang có nhiều lợi thế để phát triển mảng giáo dục đào tạo, song cần hướng đến trọng tâm là cải thiện chất lượng. Bởi lẽ, hiện có đến 70% lực lượng lao động VN không đạt chuẩn nghề nghiệp quốc tế và mỗi năm có hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, v.v.
Khi nền giáo dục nước nhà còn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, nhiều gia đình khá giả đã chọn giải pháp cho con du học. Theo số liệu Viện Thống kê của UNESCO, số lượng du học sinh VN đã tăng trung bình 12%/năm, từ 50.000 học sinh (HS) năm 2012 lên xấp xỉ 80.000 HS năm 2016. Điều đó nói lên ngành giáo dục VN cần có đổi mới mạnh mẽ hơn nữa và tiềm năng đầu tư giáo dục còn rất lớn.
Cơ hội
Do khối lượng bài vở lớn, phụ huynh đặt nhiều kỳ vọng vào con trẻ và chất lượng giảng dạy tại nhiều trường công, HS thường phải tham gia các lớp, khóa học phụ đạo ngoại khóa. Cho thấy, học sinh Việt Nam (HSVN) có một niềm khát khao được giáo dục đào tạo nâng cao hơn mức trung bình trên toàn cầu.
TP.Hồ Chí Minh là một trong 27 thành phố trên toàn thế giới có hơn 50 trường học quốc tế. Các trường học này không chỉ dạy cho con cái của các gia đình expat tại VN mà cả các gia đình người Việt mong muốn cho con mình theo học tại các cơ sở cấp chứng chỉ quốc tế. Hầu hết trường quốc tế nhận được nhiều hồ sơ xin học của HSVN, nhưng do quy định Nhà nước, số lượng HS trong nước theo học tại các trường này đang bị giới hạn.
Có hiệu lực từ ngày 1.8.2018, Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ (thay cho Nghị định số 73/2012/NĐ-CP) đã nâng mức số lượng HSVN tại các trường học có vốn đầu tư nước ngoài. Nghị định này cho phép tối đa 50% HSVN tại các trường quốc tế - từ cấp mẫu giáo đến THPT, thay đổi đáng kể so với giới hạn trước đó là 10% đối với trường tiểu học và 20% đối với trường THCS và THPT. Hiện các trường quốc tế tại VN đang đón nhận làn sóng hồ sơ xin theo học lớn của HSVN sau khi Nghị định 86 thực thi.
Bên cạnh đó, các trung tâm dạy tiếng Anh cũng đã phát triển đáng kể trong những năm qua. Tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội có khoảng 450 trung tâm tiếng Anh, trong đó ILA đang dẫn đầu thị trường và thị phần của Apax đang tăng nhanh. Năm 2017 Chỉ số thành thạo tiếng Anh (Education First English Proficiency Index - EF EPI) của VN xếp hạng thứ 7 trên 20 nước được đánh giá, cho thấy khát vọng hòa nhập và vươn lên.
Hiện có luồng vốn đầu tư lớn vào các trung tâm tiếng Anh và các trường quốc tế cho thấy tiềm năng phát triển của giáo dục quốc tế tại VN . Trong khi đó, các trường đại học và cao đẳng công lập chỉ có thể nhận 1/3 trong số 1,8 triệu hồ sơ trong kỳ xét tuyển đại học quốc gia hàng năm, cho thấy nhu cầu giáo dục sau tốt nghiệp THPT đang rất lớn.
Chính phủ VN ưu tiên hợp tác với các trường đại học quốc tế, phát triển các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập, đồng thời nỗ lực mở rộng các phương án giáo dục đào tạo cho học sinh nước nhà sau cấp THPT. Số lượng HSVN đi du học vẫn tiếp tục tăng mạnh, trong số đó nhiều sinh viên quyết định học đại học tại các nước như Mỹ, Úc, Nhật, Pháp. Có thể thấy, môi trường giáo dục tại VN đang cần có thêm các trường đại học chất lượng, với bằng cấp được chứng nhận quốc tế và học phí cạnh tranh, hứa hẹn cơ hội đầu tư lớn.
Thách thức và triển vọng
Phân tích của Savills cũng chỉ ra những thách thức trong đầu tư giáo dục VN, bao gồm hạn chế về chương trình và những quy định về thủ tục. Ngành giáo dục VN đang đối mặt nhiều vấn đề cần xử lý triệt để như: hối lộ nhập học; nâng điểm thi và kết quả học tại các cấp; sao chép, đạo văn; gian lận thi cử; giả mạo bằng cấp; khai khống ngân sách giáo dục để trục lợi cá nhân, v.v.
Mặt khác, những quy định khắt khe của Chính phủ cũng có thể là một thách thức cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Thuế suất cao, vốn đầu tư tối thiểu cho từng loại tổ chức và hợp tác giáo dục quốc tế, yêu cầu về nhân lực và quy trình cấp phép phức tạp chính là những rào cản ban đầu cho bất kỳ nhà đầu tư nào. Hiện Nghị định 86 mới cho phép 5 loại tổ chức giáo dục: tổ chức đào tạo ngắn hạn; trường mẫu giáo mầm non; tổ chức giáo dục bậc phổ thông (tiểu học, THCS, THPT và liên cấp); tổ chức giáo dục bậc cao và các chi nhánh của các tổ chức giáo dục cấp quốc tế.
Hy vọng, với 41% dân số thuộc “Thế hệ vàng” (dưới 24 tuổi), số lượng người giàu và gia đình trung lưu ngày một tăng mạnh, người VN sẽ sớm có khả năng chi trả nhiều hơn cho việc học tập của con cái theo một tiêu chuẩn giáo dục cao hơn. Dự kiến nguồn cầu cho giáo dục bậc cao tại VN sẽ duy trì ở mức cao, vậy nguồn cung sẽ đáp ứng theo mô hình và quy mô nào? Đó mới là vấn đề.
VĂN SANH