Đồng châu xứ Quảng với quận công Nguyễn Văn Trương

TRẦN ĐÌNH HẰNG 02/09/2020 04:58

Xứ Quảng là trọng trấn thời Nguyễn, để giao thương ngoại quốc và mở cõi về Nam, có nhiều đại công thần giúp nước. Từ đầu thế kỷ 20, Đồng châu xứ Quảng (hội đồng hương) ở Huế đã tương trợ, làm việc nghĩa, như trùng tu lăng mộ, từ đường Đệ nhất công thần Vọng Các, Đoan Hùng Quận công Nguyễn Văn Trương, người con ưu tú của xứ Quảng (làng An Lý, Bình Phú, Thăng Bình).

Phủ Đoan Hùng quận công ở An Cựu - Huế.Ảnh: THANH HOÀNG
Phủ Đoan Hùng quận công ở An Cựu - Huế.Ảnh: THANH HOÀNG

Sự kết nối nhân duyên đặc biệt

Từ hè năm 2019 đến nay, nhờ nhiều nhân duyên, chúng tôi đã kết nối được gia tộc Đệ nhất công thần Vọng Các, Đoan Hùng Quận công Nguyễn Văn Trương ở cố đô Huế với quê hương xứ Quảng. Từ đó, gắn kết di tích từ đường, lăng mộ và các nguồn tài liệu, có thể phác thảo nên gia thế huân công vẻ vang rỡ ràng của một danh gia vọng tộc.

Mặc dù chưa một lần qua Xiêm, chỉ ở trong nước lo hậu bị, với nhiều huân lao đặc biệt, Nguyễn Văn Trương vẫn được truy phong Đệ nhất công thần Vọng Các. Từ miền quê trung du xứ Quảng, ông cùng cha vào Gia Định, lớn lên phò nhà Tây Sơn, tới chức Chưởng cơ. Trong một lần truy đuổi họ Nguyễn, dù không gió bão, cổ thụ lại ngã chắn ngang đường, ông biết mệnh trời bèn đầu quân chúa Nguyễn. Binh nghiệp của ông gắn liền những trận thủy chiến hiển hách, trong sứ mệnh phò giá cứu nguy hoặc phục hồi nguyên khí hậu quân trong nước lúc họ Nguyễn sang Xiêm La, khởi quân Bắc phạt, tái phục vương triều. Ông từng chỉ huy giải cứu thành Diên Khánh, đại thủy chiến ở Quy Nhơn (1799), Thị Nại (1801 – được xem là “trận Xích Bích ở Việt Nam”), tái chiếm Phú Xuân. Ông được vua sai sứ trao ấn, dây thao Đại tướng quân, làm Khâm sai chưởng Trung quân, Bình Tây đại tướng quân, Quận công, ban cho một thanh gươm vàng rồi cử binh ra Bắc.

Con cháu từ Quảng Nam thăm mộ Đoan Hùng quận công.Ảnh: YÊN BA
Con cháu từ Quảng Nam thăm mộ Đoan Hùng quận công.Ảnh: YÊN BA

Ông dâng sớ cáo lão về quê (1803), vua Gia Long từ chối và cho ông cùng tuần thú Bắc Hà, rồi sai quyền lãnh việc Bắc Thành. Hồi Kinh, ông trông coi xây dựng Kinh thành, rồi Tổng trấn Gia Định (1805 - 1808). Ông mất năm 1810, thọ 70 tuổi, được ban tặng Thái bảo, Quận công, ban thụy Trung Dũng; cho quan tài bằng gỗ giáng hương và 1.000 quan tiền, sai đại thần trông coi việc tang. Vua ngự thuyền rồng đến bến sông Hương để đưa tang, sai quan dự tế, cho phu coi mộ. Năm 1815, ông được thờ vào miếu Trung hưng công thần (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Huế, Nxb Thuận Hóa, 2006, tập 2, quyển 8).

Trong lệ định công thần Vọng Các (sang Bangkok) năm 1807, Đệ nhất võ công thần chỉ có Chu Văn Tiếp, Tôn Thất Hội, Võ Di Nguy, Tống Viết Phúc, Mai Đức Nghị, Đỗ Văn Hựu; đến năm 1817, dù không xuất ngoại, nhưng nhờ công đầu nổi bật Nguyễn Văn Trương vẫn được ân điển hưởng quy chế đặc biệt này: chết trận được cấp 16 mộ phu, chết bệnh trong quân - 13, người chết bệnh ở nhà - 10. Cuối năm 1824, ông được gia ân, phụ thờ ở Thế miếu, được ban 100 mẫu tự điền. Cuối năm 1831, ông được triều đình gia tặng Tá vận công thần, Đặc tiến Tráng võ Đại tướng quân, Trung quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, Thái bảo, đổi tên thụy Chiêu Võ, phong Đoan Hùng quận công. Năm 1835, Võ Miếu được xây dựng, Bản triều tá vận công thần Thái bảo Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương được thờ ở Nhà hữu vũ (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, H, Nxb Giáo Dục, 2002, tập 1, tr. 690; tập 2, tr 386; tập 3, tr. 252; tập 4, tr. 772).

Ông là vị tướng tài ba, giàu nhân đức, sinh ra ba người con. Con trưởng tên Huyên (mất sớm), sinh ra Cai đội Minh; con ông Minh là Lược được ấm thụ Phi kỵ úy, Vệ uý, Hậu vệ, dinh Tiền phong, tập phong Đoan Hùng tử (12/Bính Thân - 1836) (Thực lục, Tlđd, tập 4, tr. 1069). Con thứ tên Vân, có nhiều quân công, Đô thống chế, khi mất (1823) được tặng Chưởng doanh, ban thụy Tráng Nghị, hậu ban gấm, lụa, vải tấm và tiền, cấp phu mộ. Ông có con tên Thuận, thời Minh Mạng làm đến Quản cơ Vĩnh Bảo, bị giặc bắt và chết trận năm 1833, tặng Phó vệ úy; thời Tự Đức được thờ ở Trung nghĩa từ. Con ông Thuận là Duật - Phò mã đô úy; (3) con út tên Ngoạn, nhiều quân công, thăng Vệ úy, làm đến Khâm sai, Thống chế, lĩnh án trấn Thanh Hoa, được gả công chúa Bình Thái năm 1808 (Ngọc Châu, con gái cả của vua Gia Long, phong Bình Thái trưởng công chúa - 1840). Ông mất năm 1833, bà mất năm 1847, có một con gái.

Hiện nay, gia tộc chăm lo từ đường (2/37 Phạm Ngọc Thạch, Huế), khu lăng mộ ngài (đường Nguyễn Hữu Thận, An Tây), ba lăng mộ sau chùa Hòa Quang (125 Lê Ngô Cát): (1) Vệ úy, Phi kỵ úy, Đoan Hùng tử Nguyễn Văn Lược (cháu ngoại Ưng Bình,... phụng lập); (2) hợp táng Phó Vệ úy Phò Mã đô úy Nguyễn Văn Duật - Tôn Nữ Ngọc Điểu (con gái Thị Khả, Thị Như lập); (3) Tiền tiền triều cửu giai tài nhân Nguyễn Văn thị, thụy Thục Thuận; cùng 2 lăng mộ ở Chiêu Ê (chưa rõ). Từ đây, gia tộc đã kết nối để thăm nom khu lăng mộ ông bà Phò Mã đô úy Nguyễn Văn Ngoạn và Bình Thái Trưởng Công chúa (29 Hoài Thanh, hiếu tử Nguyễn Văn Doãn/Duẫn, Nguyễn Văn Lượng phụng lập, Thiệu Trị 7 - 1847).

Theo lệ định năm 1865, công thần tước Công cho tập ấm 5 đời: con tập tước Hầu (Quản cơ, Chánh tứ phẩm), cháu tập tước Bá (Phó quản cơ, Tòng tứ phẩm), Tằng tôn tập tước Tử (Cai đội, Chánh ngũ phẩm), Huyền tôn tập tước Nam (Chánh đội trưởng, Chánh lục phẩm), Lai tôn tập Thiên hộ (Chánh thất phẩm) (Hội điển tục biên, tập IV, tr. 167, 169). Điểm lạ là Tằng tôn Nguyễn Văn Lược được tập ấm Đoan Hùng tử năm 1836 mà đến thời Khải Định (1919), theo văn bia, Huyền tôn Nguyễn Văn Vị được tập ấm Đoan Hùng nam - người đứng tên hai sổ điền năm 1957 khi 49 tuổi. Như vậy, ông Vị sinh năm 1908 và năm 1919 ông mới 12 tuổi. Khoảng cách giữa hai đời tập ấm quá xa (1836 đến 1919), gia tộc có thể gặp nhiều biến động. Gia cảnh phủ Đoan Hùng quận công đầu thế kỷ 20 gặp khó khăn, Tiến sĩ Phạm Liệu khởi xướng quan viên đồng hương xứ Quảng cùng gia đình trùng tu từ đường, lăng mộ, dựng bia năm 1919.

Nghĩa cử hội Đồng châu xứ Quảng

Nhân tiết Hưng quốc khánh niệm (Quốc khánh) ngày 2.5 năm Khải Định 4 (1919), từ “thời Tự Đức, chưa xác định người thờ phụng nên nhà thờ không được tu sửa, trải bao mưa gió trông rất thương tâm”, quan viên xứ Quảng tại Huế do Công bộ Tham tri Phạm Liệu khởi xướng đã chung tay trùng tu từ đường (Phó bảng Hàn Lâm viện Trứ tác Đặng Văn Oanh phụng thư - Lê Minh Khiêm dịch), lăng mộ của ngài (Mậu Tuất khoa Tiến sĩ Công bộ Tham tri Trừng Xuyên Phạm Liệu bái chí), một “biểu tượng đại định của đất nước ta từ thời trung hưng”.

Hai bia đá ở từ đường, cùng bia mộ, do Quảng Nam đồng châu văn võ quan viên và gia đình lập nên cho biết: “Anh em đồng châu góp cúng để lợp mái ngói, trùng tu nhà thờ cũ. Tháng 12 năm ngoái khởi công, đến tháng 3 năm nay thì hoàn thành. Viết lời tựa trên bia đề lưu tồn sự trạng” và “Trước là ghi lại ơn xưa đức cũ của Thánh đế đời trước, kế đến là biểu thị sự oanh liệt của bậc tôi thần cùng niềm kính ngưỡng của những người trong châu góp chút lòng thành. Sau cuối, cùng nhau bày tỏ tấc lòng hâm mộ hồn thiêng rực rỡ mà ghi chép ra đây”. Văn bia cho thấy đất công của từ đường là 1 mẫu 5 sào, quan viên văn võ đồng hương Quảng Nam cúng tiền 454 nguyên, để xây dựng từ đường, công thợ (360 nguyên), hoành phi câu đối (18 nguyên), 2 tấm bia (20 nguyên), dựng bia mộ ngài (40 nguyên), gia đình tu bổ trụ nhà cùng mua sắm bàn ghế các vật hạng khác (16 nguyên).

Việc nối kết chi phái gia tộc Đoan Hùng quận công tại Huế với cố hương xứ Quảng, ngoài tình huyết thống thiêng liêng còn cho thấy nghĩa cử cao đẹp của hội đồng hương Quảng Nam tại Huế đầu thế kỷ 20, để đặc biệt khơi dậy yếu tố cội nguồn, truyền thống lịch sử văn hóa tại kinh đô Huế, tiếp tục bảo tồn di sản văn hóa độc đáo này.

(0) Bình luận
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Đồng châu xứ Quảng với quận công Nguyễn Văn Trương
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO