Da diết nhớ thương đất mẹ
Nhiều nhà thơ Quảng Nam xa xứ đang lặng lẽ góp phần làm nên diện mạo cho thơ ca quê hương bởi những vần thơ mộc mạc, giản dị, chân tình. Thanh Hoàng là một nhà thơ như thế, dẫu tha hương đã lâu, thơ ông vẫn rưng rức nỗi lòng nhớ thương quê mẹ.

Chuyện đời mộc mạc, thấm thía
Dường như Thanh Hoàng không gặp mấy khó khăn khi làm thơ. Thơ ông là những câu chuyện giản đơn, gần gụi, chắt lọc từ những tình huống bé mọn đời thường: chuyện tờ hóa đơn tiền điện, tờ vé số, chuyện xóm trọ, chuyện người bạn đồng hương sang nhà mượn tiền, chuyện đưa vợ đi chơi ngày 8 tháng 3; chuyện đám giỗ ở Sài Gòn sau đại dịch… Thanh Hoàng đã sống rất sâu ở những tủn mủn đời thường mà chúng ta đã vô tình cạn cợt.
Chính nhờ năng lực tìm thấy “chất thơ” giữa cuộc đời lấm láp ấy mà Thanh Hoàng nhanh chóng làm người đọc rưng rưng với những tình cảnh ngậm ngùi: Mày đến anh hỏi mượn/ (Con ốm, tiền thuê nhà...)/ Đành chịu. Anh thất nghiệp/ Từ khi dịch tràn qua/ Rượu lạt tạm vài chén/ Cơm lưng bát thay mồi/ Nghèo thường hay chia sẻ/ Nên cái nghèo nhân đôi (Trích Những trang đời); Nhận tin mời đầy tháng/ Lúc đang ở lò thiêu/ Cả đời người gom lửa/ Được chút khói loang chiều (Khói chiều)…
Thơ Thanh Hoàng không đánh đố người đọc với những thi ảnh mới lạ, độc đáo hay cấu tứ phức tạp. Nhưng chúng lại mang oằn sức nặng tự sự của những thân phận ngụ cư, trôi dạt, tha phương cầu thực.
Nhà thơ Thanh Hoàng tên thật là Nguyễn Thanh Hoàng, sinh năm 1970, quê quán Duy Thu, Duy Xuyên, Quảng Nam, hiện sống tại quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh. Anh từng công tác tại Nhà Văn hóa huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, Nhà Văn hóa quận 3, TP. HCM. Thanh Hoàng có thơ đăng trên nhiều tạp chí văn học - nghệ thuật và có ca khúc phục vụ công tác tuyên truyền của ngành văn hóa - thông tin. Các tác phẩm đã xuất bản: Thơ Thanh Hoàng (NXB Hội Nhà văn, 2018); Giọt trắng mưa sa (NXB Hội Nhà văn, 2019); Vết nứt tự vẽ mình (NXB Hội Nhà văn, 2021); Sông treo ngang núi (NXB Hội Nhà văn, 2022); Vẽ nhớ (NXB Hội Nhà văn, 2024).
Mỗi bài thơ là một “truyện ngắn” cô đọng, khúc chiết, nhiều suy tư. Đặc biệt, trong những ngày tháng lao đao vì đại dịch COVID-19, chuyện đời trong thơ Thanh Hoàng cứ dày mãi lên vì nhìn đâu cũng thấy những phận đời khốn khó, éo le: Chị giấu chồng trong túi hành lý hồi hương/ Chưa biết nói với các con và mẹ cha như thế nào khi họ không thấy anh quay về cùng chị/ Sợ tro bụi mờ thêm mắt mẹ/ Sợ kéo dài cơn ho của cha/ Chị theo đoàn người rạch gió mà đi/ Mưa nắng hướng quê quất vào rát mặt (Trích Về).
Dù đã định hình lối viết riêng với phong cách tự sự - trữ tình rất truyền thống, nhưng bên cạnh sức lay động của những câu chuyện đời, thơ Thanh Hoàng còn neo lại trong tâm trí người đọc bởi những hình ảnh thơ có sự kết hợp hết sức đột ngột, lạ lùng.
Đọc thơ ông, ta mới bàng hoàng, hóa ra để sinh thành một đứa con, người mẹ phải cầm đời mẹ để vay đất trời. Liên tưởng ấy của Thanh Hoàng thật bất ngờ mà thấm thía, bởi người đàn bà nào chẳng đánh cược sinh mệnh mình để đổi lấy hình hài con thơ. Để rồi đứa con thấy mình: Tiêu dần cạn hết vốn xưa/ Bao lần đáo hạn con chưa nên người.
Viết về một người thương binh thời hậu chiến, Thanh Hoàng khiến ta lặng người với những hình ảnh vừa chân thực, vừa thấm đẫm suy tư: Chân tay lạc mất rừng sâu/ Thân còn như dấu chấm câu giữa đời. Chất liệu hình ảnh trong thơ Thanh Hoàng không tuân theo những quy ước thẩm mỹ quen thuộc của thi ca, bởi chúng giàu chất hiện thực chứ không ước lệ, tượng trưng. Nhưng chính sự kết hợp đầy sáng tạo giữa những từ ngữ không hề thuộc một trường từ vựng - trường liên tưởng lại tạo nên chất thơ, tính thẩm mỹ cho sự biểu đạt.
Người mẹ và hình bóng quê nhà
Thanh Hoàng viết chuyên cần và đã in nhiều tập thơ mà đề tài quen thuộc xuyên suốt các tập thơ ấy chính là người mẹ và nỗi nhớ thương quê mẹ da diết.

Ở tuổi ngũ tuần - độ tuổi mà “dinh dưỡng” cho đời sống tinh thần chính là ký ức, Thanh Hoàng triền miên trong nỗi mồ côi, nỗi nhớ mẹ. Như đứa trẻ thơ bị mẹ dối gạt, ông cứ tấm tức hờn tủi vì mẹ đã lén bỏ mình mà đi: Đến lúc chết cũng lén con mà chết/ Mẹ làm như con tránh được đau lòng; Nghe mẹ, con tìm đếm/ Những khôn dại đường xa/ Mẹ ở nhà trốn biệt/ Chơi chi rứa, bà già!
Vẫn là trò chơi trốn tìm thuở nhỏ, nhưng mẹ đã mãi nấp vào hư không, để cho đứa con, dù đã bước sang cái dốc bên kia của đời người vẫn không nguôi hụt hẫng, tủi hờn: Mẹ xa, con xưa khát sữa khóc òa, nay rưng rức một bóng già mồ côi.
Mất cha từ bé, với Thanh Hoàng - mẹ là cả khung trời tuổi nhỏ, mẹ mang vẻ đẹp thiêng liêng của đấng cứu thế trong thần thoại: Một tay mẹ níu núi rừng/ Chắn ngang gió bão để đừng lạnh con/ Một tay mẹ chẻ suối sông/ Dẫn đường tôm tép vào dòng sữa thơm. Nhưng cho dù mẹ có chắn gió ngăn sông cho đời con êm ấm thì mẹ vẫn là người đàn bà đơn côi trong bao đêm trường góa bụa: Lạc vào mê cung những nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt mẹ/ con vấp tuổi thơ mình/ nghe tiếng gàu khua giếng khuya cạn nước/ tiếng thở dài ướt manh chiếu mục.
Nhiều nhà thơ đã miêu tả nỗi cô đơn của người đàn bà, từ Hồ Xuân Hương: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/ Trơ cái hồng nhan với nước non; đến Xuân Diệu: Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da. Nhưng hiếm có ai “nghe” được nỗi cô đơn trong âm thanh tiếng gàu khua giếng cạn, tiếng thở dài thao thức trên chiếu mục - Thanh Hoàng không chỉ nhìn mẹ như mẹ mình, mà cậu trai ấy đã sớm trưởng thành, và thương mẹ bằng nỗi đau của một người đàn ông.
Chính tình yêu sâu đậm với mẹ là sợi “dây rốn” nối Thanh Hoàng gắn chặt vào đất mẹ Quảng Nam. Sớm phiêu dạt xứ người để mưu sinh, Thanh Hoàng thường trực cảm giác thiếu quê hương, nhớ quay quắt hình bóng quê nhà: Quán nghèo ly rượu nhạt/ tím môi ngày cuối đông/ say, một mình con khóc/ Tết xa quê, nghẹn lòng.
Dẫu mang ơn vùng đất phương Nam bao nghĩa tình nhân hậu, nhưng đất khách không neo được lòng của con thuyền mũi cứ mãi hướng quê.
Chất Quảng trong thơ Thanh Hoàng lồ lộ còn ở những từ địa phương thân thuộc: Bữa chiều nhà bên thơm khói bếp/ Đêm con mơ mút lợt ngón tay mình; Ghé chợ Tết tiếng đồng hương rất ấm/ (Mấy mươi năm cố tập giọng xứ người)/Tấm áo mặc màu theo mùa thay khác/ Nhưng giọng mình - cứ rứa - vẫn quê thôi; Mỗi chiều đến bồng mi đi uống rượu/ Đời nhẹ tênh hai vạt ống chân quần/ Đôi chân mất mi vẫn can trường sống/ Tau lành mà chân bước cứ phân vân… Những mút lợt, rứa, tau - mi… quá chừng thân thương như “căn cước” Quảng trong thơ người xa xứ.
Đọc thơ Thanh Hoàng, tôi thường liên tưởng đến những cây giống được bứng sang trồng đất khác, nhưng vẫn thiết tha đất mẹ. Giữa những dòng chảy cách tân thơ ca phức tạp, thơ Thanh Hoàng trong trẻo như lời thủ thỉ tâm tình, không khoa trương, màu mè nhưng vẫn làm người đọc rưng rưng yêu người, yêu đời dẫu đời còn nhiều thương khó. Chính những cây bút tha hương như Thanh Hoàng đã làm giàu có thêm gia tài thơ ca xứ Quảng.