Xã hội

Lương y Bùi Quang Nhẫn: Tiếp nối nguồn mạch y học cổ truyền

ĐÌNH QUÂN 02/03/2025 09:59

Hơn 30 năm hành nghề, ông vẫn nhất mực một tâm niệm: đã làm nghề thuốc cần phải hết lòng với bệnh nhân, ngõ hầu giúp được phần nào cho người bệnh vượt qua đớn đau...

20250209_112738.jpg
Lương y Bùi Quang Nhẫn. Ảnh: Đình Quân

Dòng họ Bùi di cư về Gia Thọ ấp thuộc địa phận xã Tú Chàng xưa, nay là thôn An Thọ, xã Tam An, huyện Phú Ninh an cư lạc nghiệp đã hơn 10 đời. Các thế hệ sau này học tập, làm việc và gìn giữ một nghề thật cao quý - khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Truyền nhân đời thứ 5 là lương y Bùi Quang Nhẫn vẫn tiếp nối nguồn mạch y học cổ truyền của tổ tiên hơn ba mươi năm qua.

Nam dược trị nam nhân

Từ ông cố, ông nội cho đến thân sinh của lương y Bùi Quang Nhẫn đều là thầy thuốc có tiếng trong vùng. Thuở nhỏ, ông đã theo cha tập tành làm nghề thuốc bằng cách xem cha cắt thuốc và được cha sai vặt. Hun đúc từ việc thích làm nghề thuốc và ham đọc sách y từ nhỏ, sau này lớn lên khi đã nắm vững y thuật, bước vào hành nghề thì những bài thuốc gia truyền được lương y Bùi Quang Nhẫn nhớ lại và xử lý nhanh, gọn, hiệu quả.

Tôi hỏi phương châm xuyên suốt trong một đời làm nghề, ông tâm đắc điều gì nhất? Không phút lưỡng lự ông nêu ngay câu thường nói của cha (ông Bùi Phong): “Đối với bệnh nhân cái gì phải lấy tiền thì lấy, cái gì cho được họ thì nên cho”.

Bây giờ ông còn thêm một ý nữa: sinh mạng bệnh nhân là điều quý nhất. Bệnh nhân phải mất tiền chữa bệnh thì họ phải được phục vụ xứng đáng. Bởi vậy ông rất cẩn trọng trong việc khám bệnh và bốc thuốc. Ông còn đưa ra một tiêu chí, nếu bệnh nhân nào bị khuyết tật, dị tật bất kể già hay trẻ, ông tâm nguyện chữa cho họ không lấy tiền.

Ngay khi hành nghề, lương y Bùi Quang Nhân đã nắm bắt nhiều kỹ thuật châm cứu cơ bản. Qua nhiều năm thực hành chữa bệnh và học tập nghiên cứu, tay nghề của ông ngày càng thuần thục hơn.

Năm 2000 - 2001 ông tiếp tục ra Bắc tham dự khóa học chuyên sâu ở Hội Đông y Việt Nam, Bệnh viện Y học cổ truyền Việt Nam và ở Viện Châm cứu của Giáo sư Nguyễn Tài Thu - người được mệnh danh là người có đôi bàn tay kỳ diệu nổi tiếng. Khoảng thời gian theo học ông chuyên cần rèn luyện những gì chưa thấu đáo về y lý phương thang.

Lương y Bùi Quang Nhẫn nhận được nhiều giấy khen và bằng khen từ UBND tỉnh, huyện và hội Đông y các cấp. Gần đây ông vừa nhận danh hiệu Thầy thuốc Đông y tiêu biểu do Hội Đông y Trung ương trao tặng.

Tôi hỏi ông, trong nghề khám, bốc thuốc, châm cứu, chữa bệnh… ông nghĩ thế nào về câu nói của tiên thánh ngành thuốc Nam Tuệ Tĩnh “Nam dược trị nam nhân”?

Ông nói, để vận dụng những vị thuốc ở trong nước, từ thế kỷ 14 thầy Tuệ Tĩnh đã viết: Nam dược thần hiệu, Hồng Nghĩa giác y thư. Đây là những bộ sách chuyên về thuốc nam, nhưng nhược điểm của Nam dược là không có sự đúc kết đầy đủ về mặt lý luận. Còn ở Trung Quốc (Trung y) từ lâu họ đã có một hệ thống lý luận logic từ Vọng - Văn - Vấn - Thiết.

Nam dược của ta phần lớn dựa trên những bài thuốc mang tính đối chứng lập phương. Ví dụ như đau đầu thì dùng cây mạn kinh tử (từ bi), cây hương nhu, tía tô, bạch chỉ,... cứ thế mà sắc uống… Nhưng về mặt lý luận y học ta không giải thích được là tại sao phải dùng những cây đó. Còn Trung y đưa ra lý luận khi nào dùng bạch chỉ, khi nào dùng mạn kinh tử, khi nào dùng xuyên khung một cách chặt chẽ, rõ ràng.

Dược liệu mỗi vùng miền cũng có những khác nhau cơ bản. Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu tại nơi trồng sẽ quyết định lớn đến hàm lượng dưỡng chất của vị thuốc. Người Việt xưa nay quen dùng thuốc bắc và có những vị thuốc bắc mà thuốc nam không thay thế được hoặc hàm lượng dưỡng chất không bằng. Tuy nhiên với sự phong phú và đa dạng về chủng loại, cây thuốc nam vẫn có thể vận dụng tốt trong việc chữa bệnh cho người Việt. Ông dẫn chứng “bản quyền” của ông chữa phụ nữ bị tắc tuyến sữa là không sử dụng đến thuốc bắc mà hoàn toàn thuốc nam. Chữa rắn cắn ông cũng không dùng thuốc bắc mà dùng toàn thuốc nam cực kỳ hiệu quả.

Hệ thống lý luận y học cổ truyền

Một lần tôi hỏi lương y Bùi Quang Nhẫn: Trong làm nghề, ông có nghĩ, người thầy thuốc Đông y ngày nay cần phải nhuần nhuyễn học thuyết âm dương - ngũ hành để ứng dụng trong chữa bệnh?

Ông trả lời: Trong y thuật âm dương - ngũ hành - khí huyết - tạng phủ - kinh lạc - huyệt vị… phải thật nhuần nhuyễn để khi áp dụng được linh hoạt. Ví dụ phép châm cứu theo Tý ngọ lưu chú hay Linh quy bát pháp là những phương pháp chữa bệnh của phương Đông rất tối ưu.

Trong hệ thống lý luận của Đông y chỉ ra rằng: Cơ thể có 6 đường kinh, trong 6 đường kinh đó chia thân thể ra, nửa bên này 6, nửa bên kia 6, tổng là 12, thì 12 đường kinh này sẽ tương ứng với 12 là lục phủ và ngũ tạng. Lục phủ có 6, nhưng ngũ tạng chỉ có 5, như vậy còn thiếu 1 phải tìm ở đâu. Thiếu 1 đó người ta ghép vào tâm bào lạc tức là màng ngoài của tim, và tâm bào lạc ứng với tam tiêu. Tam tiêu lại chia cơ thể làm ba phần thượng - trung - hạ… Ví dụ 3 - 5 giờ sáng là giờ Dần, giờ của kinh phế vượng. Vậy tính cái mốc kinh khí nó vượng trong một thân người khởi sự tại Dần. Có người nói bắt mạch buổi sáng mới chính xác. Đúng, nghĩa là bắt mạch tại giờ Dần.

Nhiều thành viên trong gia đình tôi từng được lương y Bùi Quang Nhẫn chẩn mạch cắt, bốc thuốc. Mỗi lần đến đây tôi đều thấy đông bệnh nhân ngồi chờ ở phòng khám. Nhìn cách chăm chú bắt mạch, dò hỏi chi tiết biểu hiện, diễn biến bệnh của bệnh nhân với tâm tĩnh tại, chậm rãi, không hề dao động với những sự việc ở bên ngoài, tôi nể phục. Từng phương thang được gói vuông vức, nhỏ nhắn, kèm theo lời dặn dò tỉ mỉ lần lượt người này cho đến người khác. Thường mỗi lần khám, ông chỉ cắt hai thang, hỏi lý do được ông cho biết là để thăm dò sự đáp ứng thế nào của thuốc.

Ông còn cho rằng, chất lượng của dược liệu là tối quan trọng. Thầy thuốc chẩn đoán bệnh giỏi, bắt đúng mạch, cho toa đúng vị, nhưng chất lượng của dược liệu không tốt thì không thể nào hoàn thành trách nhiệm của một thầy thuốc.

Khi nhận nguồn cung dược liệu từ các nơi gửi về, bao giờ ông cũng kiểm tra kỹ lưỡng, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô cho vào túi ni lông bảo quản, cất giữ… rất cẩn thận.

Ông còn giãi bày thêm vài thủ thuật trong khâu sơ chế: ví như dùng lửa (hỏa chế) để sơ chế, mục đích là làm khô bảo quản dược liệu, thay đổi tính chất và làm tăng tác dụng của tính dược.

Kỹ thuật thì rất nhiều, chẳng hạn như phương pháp sao thôi cũng có nhiều cách: sao vàng hạ thổ, sao sém cạnh, sao tồn tính (hắc sao), sao cháy (thán sao), sao cát, sao hoạt thạch (kết hợp chất có dầu)… Ngoài ra, còn có chích (tẩm mật), đốt rượu, nung, lùi, sấy. Mục đích của hỏa chế nhằm loại bỏ tạp chất, giảm bớt độc tính, thay đổi tính năng…

Được thừa hưởng truyền thống từ một gia đình Nho giáo, thấm nhuần y đạo từ cha ông lưu lại, việc hành y được nhân dân tín nhiệm, từ đó tiếng lành đồn xa, bệnh nhân từ Đà Nẵng, Hội An, Đại Lộc, Điện Bàn, Núi Thành, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác nữa lặn lội tìm đến ông để được khám chữa bệnh.

Ông tổ của ngành y học cổ truyền Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác từng nói rằng: “Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người, không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”. Và ông, vẫn đang cố từng ngày để đi trọn câu “Thầy thuốc như mẹ hiền”.

(0) Bình luận
x
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Lương y Bùi Quang Nhẫn: Tiếp nối nguồn mạch y học cổ truyền
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO