Đời sống

Miên viễn mắt rừng...

Ghi chép của THÀNH CÔNG 22/06/2025 08:45

“Tôi đã ở đó, trong những ngày họ sợ nhất. Ở đó, cùng ăn, cùng ngủ, cùng đi rẫy, mặc cho nhiều người nằng nặc đòi trở về khu 7. Từ đó mà có làng. Làng lớn rộng lắm, nhưng văn hóa còn phủ trùm lên đó, còn lớn hơn cả rẫy, cả núi, cả sông đi qua làng nữa” - lời già Y Kông trầm như gió rừng. Vị già làng, chứng nhân cho những xao xác thời cuộc lẫn biến thiên đời người, đã ngoài trăm tuổi.

441a7737.jpg
Già làng tham gia đẩy gậy. Ảnh: THÀNH CÔNG

1. Nắng xiên qua mái nhà sàn. Già Y Kông (trú thôn Tống Coói, xã Ba, Đông Giang) ngồi tựa hẳn vào ghế. Tuổi tác đã lấy đi phần nhiều sức khỏe của ông. Người già ít nhiều quên nhớ, nhưng những câu chuyện của vùng đất, của đồng bào mình, già vẫn là chứng nhân, trong số những chứng nhân cuối cùng...

“Kể thì ngắn, nhưng tôi và anh Bríu Prăm, cùng là lãnh đạo huyện thời đó, đã phải đi hàng chục lần, mất nhiều tháng trời ngược xuôi từ làng Abưl của xã biên giới Ch’ơm (Tây Giang) xuống làng Aliêng của xã Ba (nay là xã A Ting, Đông Giang).

Lên biên giới thì vận động bà con đi xuống dưới vùng thấp, còn phía dưới này thì phải gặp trước, nói trước bà con để tìm chỗ, xin đất, xin rẫy cho người vùng cao dời về. Ban đầu chỉ vài ba hộ, sau này thành cả một làng. Rất nhiều làng bây giờ ở Đông Giang, gốc gác đều từ khu 7 biên giới” - già Y Kông kể lại.

Người Cơ Tu thượng đã lầm lũi đi suốt nhiều tuần liền, mang theo những gùi hạt giống và dụng cụ tối giản nhất trong cuộc thiên di lịch sử của mình, kể từ sau giải phóng. Bà con quen sống trên núi, quen rẫy, quen săn bắt. Nói xuống vùng thấp, ai cũng sợ. Sợ đất lạ, sợ mất rừng.

Nhưng cái sợ lớn nhất và ám ảnh nhất, là “cái chết xấu”. Chỉ ít lâu sau khi dời về Aliêng, cư dân của Abưl nơi vùng đất mới chứng kiến “cái chết xấu” xuất hiện tại làng. Họ sợ. Nhiều người nằng nặc khăn gói trở về. Cùng lúc đó, hàng loạt câu chuyện bí ẩn bị đồn đoán liên quan “chết xấu” xuất hiện ở các làng lân cận: người già, trẻ em đau ốm liên miên.

Ám ảnh “chết xấu” khiến một nửa cư dân làng Chờ Nét (xã A Ting) dọn về sáp nhập với làng K’đéh (thị trấn P’rao bây giờ); một số hộ bỏ về tận xã Lăng (Tây Giang). Vài hộ ở làng Rà Vả theo hướng xã Zuôih (Nam Giang) mà bỏ làng đi.

Giữa những hoang mang của đồng bào Cơ Tu thượng, hai “cánh chim tring” mở đất là già Y Kông và già Bríu Prăm đi bộ cả tuần, từ bản này qua bản kia, ngồi bên bếp lửa từng nhà để vận động. Trong những ngày căng thẳng nhất, già Y Kông giao nhiệm sở cho cán bộ huyện, về ở hẳn Aliêng suốt 3 tháng liền. Già cùng ăn, cùng ở, cùng uống rượu, cùng làm rẫy với người làng. Ông tuyên bố: “Ai chết, mang đến đây tôi đền”. Một tháng, rồi hai ba tháng trôi đi, làng vẫn bình yên.

“Rồi lỡ có người chết thật lúc đó thì bác làm sao” - tôi hỏi. “Lúc đó, cái quan trọng nhất là phải vững vàng để họ tin, để họ đỡ sợ. Mà chuyện đau ốm của họ khi đó, tôi có ghé qua xem, do người vùng cao mới về vùng thấp, khí hậu, không gian sống thay đổi đột ngột, nhiều người chưa kịp quen, nhất là người già với trẻ con. Không phải bệnh gì nghiêm trọng đâu. Tôi mà không làm thế, không cam kết với họ ngay từ đầu, chắc họ đã trở về Tây Giang từ ngày đó rồi” - vị già làng khẽ cười.

z4991059454930_90174b9b454ecb3d91554a119a06c84b.jpg
Cố kết cộng đồng gắn với bảo tồn văn hóa là sức mạnh để gìn giữ “văn hóa làng” ở vùng cao. Ảnh: THÀNH CÔNG

2. Làng mới, không chỉ là đất. Người Cơ Tu hạ đã sẵn sàng nhường rẫy, nhường vườn tược, có làng nhường cả nhà cũ của mình để dời đi nơi khác cho người Cơ Tu thượng ở.

Năm tháng trôi qua, họ trở thành người uống chung nguồn nước, nói cùng một giọng. Nhưng trong thẳm sâu ký ức, nhất là những người già, vẫn biết ơn ông Y Kông và ông Bríu Prăm. Hai vị già làng như hai cây cột cái của gươl làng, vững chãi neo giữ lấy làng thời mở đất. Văn hóa được giữ. Những tục cúng đất, cúng làng, mừng cơm mới, lễ kết nghĩa giữa hai làng được thực hành đến tận ngày nay.

“Văn hóa là cái giữ chúng ta đứng vững. Không gươl làng, không trống chiêng, không còn những lễ nghi truyền thống, thì làng chỉ là đất” - ông Y Kông nói.

Năm mươi năm, câu chuyện “làng mới” bỗng thời sự trở lại, sau những thông tin được công bố về sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính. Đâu đó có những lao xao trong tâm hồn cộng đồng. Trong cuộc thiên di của 50 năm trước, người Cơ Tu thượng gùi lúa giống, gùi con cái, gùi theo cả cái tên làng cũ đi cùng.

Bây giờ thì khác. Một đời sống khác rồi sẽ đến. Những bản làng nhỏ, nơi từng mang tên riêng, mang câu chuyện riêng, nay hòa vào thôn, vào xã khác, lớn rộng hơn. Làng không giữ riêng lấy ngọn núi, lấy con nước nữa. Mọi thứ, có thể sẽ thành của chung.

Còn nhớ, trong một lễ hội ở Nam Giang, tôi gặp hai thiếu nữ người của xã Zuôih lặn lội hàng trăm cây số từ thành phố trở về làng mỗi cuối tuần để tập luyện. Họ lập nghiệp ở phố, nhưng trái tim vẫn để lại làng.

Lễ hội, là dịp để trái tim ấy cháy lên cùng với làng, nối ký ức bản làng với hai thiếu nữ dẫu họ phải lặn ngụp trong cuộc mưu sinh nơi đô thị. Cũng như cách nhiều bạn trẻ tìm học chơi nhạc cụ, học dệt thổ cẩm. Họ học cách yêu lấy cội nguồn của chính mình, mặc cho xung quanh họ, cuộc sống vẫn đang rùng rùng biến động...

Văn hóa miền núi không chỉ là những điệu múa, lễ nghi, sắc phục, mà còn là cách người dân sống hòa hợp với núi rừng, là những tập tục truyền thống, là một thứ “văn hóa làng” tồn tại trong từng cộng đồng rất nhỏ của tộc người.

Cánh cung huyền nhiệm trong kiến trúc làng Cơ Tu truyền thống nhiều nơi bị phá vỡ, hồn cốt của làng cũng đối mặt với bao thách thức của cuộc giao thoa. Và người trẻ nữa. Họ đang phải dự phần vào cuộc phân ly vô hình với cội nguồn, khi một số đông đã bắt đầu chọn cuộc mưu sinh phía phố thị.

Không phải ai cũng mang trong mình sự khao khát quay về những giá trị của văn hóa dân tộc mình. Cũng không nhiều người có cơ hội tiếp cận, học và giữ lấy nó, như một cách để làm đầy những giá trị gốc của cộng đồng, của làng, khi đang phải chật vật sống...

Tôi vẫn giữ niềm tin và sự kính ngưỡng của mình với họ, những người sống cùng rừng. Dẫu có bước ra khỏi rừng, thì ở đó vẫn là một màu xanh nguyên thủy, vẫn có những giá trị còn lớn hơn cả bản năng, và một tiềm thức rất rõ ràng về sắc tộc, tiếng nói và văn hóa của dân tộc mình. Hồn cốt văn hóa miền núi là dòng sông cuộn chảy. Cuộc di dân, đổi tên làng, tên xã có thể đâu đó là những khúc quanh, nhưng không thể dòng sông ấy ngừng lại.

“Phải tin vào lớp trẻ” - già Y Kông cất lời, phá vỡ khoảng yên lặng vô hình. Sau rất nhiều thứ đã phôi phai và lạc mất, vị già làng gửi lại niềm tin của chính mình cho lớp trẻ, cho thế hệ tiếp theo sẽ thay ông giữ giá trị văn hóa của đồng bào mình. Năm mươi năm trước, theo lời ông, hàng ngàn người đã đến dựng đất, lập làng. Những ngôi làng không thừa hưởng từ tổ tiên, nhưng đã được ông cùng bao gia đình ngày ấy gầy dựng. Những đôi mắt rừng đã nhìn rất xa, để cất công ươm mầm cho làng, cho đất hôm nay, tồn tại...

(0) Bình luận
x
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Miên viễn mắt rừng...
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO