Đã 50 năm qua, nhưng trong ký ức của người Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trương Văn Hòa - người chỉ huy trận tổng tiến công vào quận lỵ Điện Bàn ngày 29/3 lịch sử vẫn còn vọng tiếng reo của đồng đội...
Thời khắc lịch sử
Theo mật lệnh của Đặc khu ủy Quảng Đà, nhiệm vụ của Điện Bàn là giải phóng huyện, mở đường cho giải phóng TP.Đà Nẵng. Ngày 28/3/1975, Huyện ủy Điện Bàn phát lệnh khởi nghĩa trong toàn huyện.
Ông Trương Văn Hòa cùng lực lượng vũ trang của huyện đang đóng chân tại Điện Thọ, cùng với Điện Tiến là hai xã nhận lệnh khởi nghĩa sớm nhất, đồng loạt nổi dậy.
Ông Hòa nhớ lại, đơn vị của ông cùng lực lượng khởi nghĩa tiến công vào các chốt điểm tại ngã ba Trùm Giao, ngã tư Nông Sơn, cầu Bình Long. Ngày 28/3 cũng là thời điểm mà các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Hội An được giải phóng, cùng với việc binh sĩ ngụy từ quân trường Hòa Cầm bỏ chạy về hướng Điện Bàn.
Khí thế tiến công của quân ta dâng cao. Trưa cùng ngày, quân ta đã bức hàng đồn Bồ Bồ, Trảng Nhật. Đến chiều thì đánh đến chốt điểm cầu Giáp Năm, địch đầu hàng.
Bốn giờ sáng ngày 29/3/1975, ông Trương Văn Hòa chỉ huy hai đại đội 1 và 2 của huyện Điện Bàn tiến vào đánh chiếm cầu Vĩnh Điện. Đại đội 3 tiến công vào chi khu quận lỵ Điện Bàn. Địch co cụm về đây từ nhiều ngày qua rất đông nhưng đồng loạt đầu hàng.
Bảy giờ sáng ngày 29/3/1975, chi khu quận lỵ Điện Bàn và cả thị trấn Vĩnh Điện phất phới cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trở về từ cõi chết
Sinh năm 1937, lên 10 tuổi, cậu bé Hòa tham gia du kích địa phương làng Bích Bắc. 15 tuổi, được tổ chức đưa đi đào tạo để đảm nhận trọng trách thông tin bí mật của du kích xã. 26 tuổi, năm 1963, ông nhận chức Phó đội trưởng du kích Điện Hòa, 2 năm sau làm Xã đội trưởng.
30 tuổi, Trương Văn Hòa được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công Giải phóng. Ngày 17/9/1967, Trương Văn Hòa được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì.
Năm 1969, ông Trương Văn Hòa sa vào tay giặc trong trận đánh ở Điện Thọ. Nếm đủ các nhục hình tra tấn từ các trại tù từ Vĩnh Điện, Đà Nẵng rồi bị đưa ra Phú Quốc, ông Hòa tiếp tục đấu tranh, được anh em tù tín nhiệm bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy nhà lao.
Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, chuyến vượt ngục trở về đất liền của ông thành công. Năm 1972, ông được Trung ương cục Miền Nam đưa về quê, tiếp tục hoạt động với chức vụ Huyện đội phó huyện đội Điện Bàn.
Bà Lê Thị Lai, sinh năm 1944, vợ của ông Hòa, xúc động kể: Lúc đó (năm 1969), gia đình nhận tin báo từ tổ chức rằng, ông Hòa hy sinh trong trận chống giặc đi càn ở vùng giáp ranh Điện Thọ, Điện Phước nhưng không lấy được xác. Sau nhiều lần âm thầm tìm kiếm, dò hỏi khắp nơi, gia đình về lập bàn thờ, cúng giỗ suốt mấy năm.
Bỗng nhiên, một buổi chiều 3 năm sau, người cháu từ dưới làng Hà Đông lên đưa mảnh giấy nhỏ và nói “Chú Mười (tên gọi trong gia đình của ông Hòa) về rồi!”. Mấy ngày sau, cùng với người chị, bà dắt 2 anh con trai đi vòng lên Điện Tiến, qua ngõ Cồn Dê, rồi vượt sông Bình Phước, qua cánh đồng Giáng La, Điện Thọ, tìm gặp được ông Hòa ở khu căn cứ.
Phía sau huy chương
Trương Văn Hòa còn đi đầu trong phong trào tự chế tạo vũ khí để diệt xe cơ giới, ngăn chặn các cuộc càn quét và vận chuyển binh lính bằng tàu lửa của địch.
Ông kể, ngày đó quân mình thiếu vũ khí, không có thuốc nổ. Sau khi thu chiến lợi phẩm của địch về, ông mày mò nghiên cứu từng quả bom, mở đầu mở đuôi ra rồi cưa lấy thuốc nổ. Dự đoán tình tình địch sẽ hành quân qua đoạn đường nào thì ông bí mật đặt kíp nổ trực tiếp.
Khi đi đặt kíp nổ, chỉ một mình ông đi, anh em muốn đi cùng nhưng ông nhất quyết không cho, vì nghĩ vũ khí tự chế rất nguy hiểm, nếu có sơ suất thì mình ông chịu. “May không có quả mìn nào sai kỹ thuật, đều phát nổ đúng thời điểm hết, có quả mìn nổ chết 20 tên lính Mỹ” - ông kể.
Ngày 27/6/1968, trên đường đi dự hội nghị Chiến tranh du kích nhân dân, nhà văn Chu Cẩm Phong cùng đi với 6 đại biểu của Điện Bàn. Nhà văn kể, có chị Mười, Huyện đội phó và 5 thanh niên đi cùng rất nghịch ngợm, kể chuyện tiếu lâm suốt và cười rần rật.
Nhà văn có gợi hỏi, và đây là một trong những chuyện họ kể: “...Trương Văn Hòa hiện nay là Huyện đội phó, trong trận đánh tập kích đồn Bàu Sáu, lúc rút lui đạn và pháo địch bắn rát. Lúc chạy lướt qua một nhà nọ, anh phát hiện một người đàn bà nửa quỳ, nửa nằm, quằn quại ngay ngạch cửa. Người đàn bà đang chuyển bụng đẻ. Xung quanh không có một ai.
Anh gọi anh em lại cho bố trí tất cả để chặn địch, bảo vệ người mẹ này, và chính tay anh, đôi tay vừa xả từng tràng tiểu liên vào địch, còn khen khét mùi thuốc súng đã đỡ em bé, khai sinh một cuộc đời, đón một con người vừa ra đời. Các bạn anh cầm súng nằm ngoài hồi hộp lắm. Bà mẹ sau này rất biết ơn anh, nhưng chuyện này anh không dám kể trong các đại hội anh hùng. Anh bảo rằng - dị quá…”. (Nhật ký chiến tranh - Chu Cẩm Phong - NXB Văn học, Hà Nội 2000).
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa về người anh hùng của nhân dân - Trương Văn Hòa, ông không muốn kể, đồng đội ông, có người chưa kịp kể…
Đã 50 mùa xuân hòa bình, anh hùng Trương Văn Hòa giã từ binh nghiệp, trở về bên mái ấm gia đình. Sâu thẳm trái tim ông, nỗi đau chiến tranh vẫn luôn nhức nhối. “Trên người tôi nhiều vết thương lắm, nhưng không là gì cả. Đồng đội tôi, biết bao nhiêu người đã ngã xuống, bao người ra đi mãi mãi không về…” - ông trầm ngâm.