Những người con của làng biển Tỉnh Thủy (xã Tam Thanh, TP.Tam Kỳ) sinh ra trên vùng cát bỏng rát, tắm nước mát dòng Trường Giang và thấm vị mặn mòi của biển…, luôn rực cháy trong trái tim một bầu máu nóng ấm của tình yêu quê hương, đất nước. Lớp cha trước, lớp con sau sẵn sàng xông pha trên những tuyến đầu đánh giặc, lập nên bao kỳ tích…
1. Năm nào cũng vậy, vào dịp kỷ niệm ngày quê hương giải phóng, những người con của làng biển Tỉnh Thủy sinh sống và làm việc ở nhiều nơi trên mọi miền đất nước, lại làm cuộc trở về nơi chôn nhau cắt rốn.
Từ mảnh đất này, những ngày đầu kháng chiến chống Mỹ, họ đã ra đi, đem sức vóc, trí tuệ của mình cống hiến cho quê hương, đất nước, để giờ đây trên nẻo về cố quận lòng dậy lên bao con sóng dạt dào của tình yêu và khát vọng, của những mầm xanh tươi cho đất đai quê cát nở hoa…
Năm 1954, người dân làng Tỉnh Thủy, chứng kiến một cuộc chia ly lịch sử: 96 cán bộ, đảng viên tập trung vào Quy Nhơn lên tàu Ba Lan, tập kết ra miền Bắc với ước hẹn hai năm sẽ quay về xây dựng quê hương.
Vậy mà cuộc chiến tranh đã kéo dài dằng dặc, gây biết bao đau thương cho người dân vùng cát. Ông Nguyễn Văn Văn (một cán bộ cách mạng làng Tỉnh Thủy) kể lại câu chuyện của mẹ mình trong nước mắt: “Địch tập trung tất cả người thân của những người tập kết đi Bắc lại trước đình làng, tra khảo, đánh đập, quyết tìm cho ra cơ sở cách mạng. Mẹ tôi bị nhốt riêng, tra tấn ròng rã 7 ngày, không chịu nỗi, bà mất. Mẹ hy sinh càng thôi thúc anh em chúng tôi cầm súng lên đường…”.
Cuối năm 1963, làng Tỉnh Thủy đã tổ chức cho 23 thanh niên đầu tiên bí mật thoát ly lên chiến khu tham gia kháng chiến chống Mỹ. Ông Nguyễn Văn Quân (người nhỏ tuổi nhất trong số đó) nhớ lại: “Chúng tôi vượt sông Trường Giang trong đêm, qua bên kia Kim Đới, dùng tín hiệu là ba tiếng trốt để nối liên lạc với cơ sở của mình, tiến hành di chuyển lên đến nơi là 5 giờ sáng…”.
Bến đò của làng Tỉnh Thủy, giờ đây đã trở nên yên vắng, lặng lẽ. Trong số những người hôm nay đặt chân về đứng trước con sông quê hương, có nhiều người như ông Quân, từ bến đò này làm cuộc chia tay người thân, chia tay mảnh đất Tỉnh Thủy đi tham gia cách mạng.
Con đò ngày xưa đưa họ qua sông vẫn như ở đó để đợi chờ những cuộc trở về. Từ bến đò này, bà Phạm Thị Lan Hoa cùng với hai người em trai của mình là Phạm Thông và Phạm Phương thoát ly tham gia cách mạng.
Bà Hoa bồi hồi nhớ lại: “Chúng tôi rất tự hào vì được sinh ra và lớn lên trên quê hương Tỉnh Thủy anh hùng, được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Nhờ vậy, anh em chúng tôi đã trưởng thành trước tuổi, hiểu được nỗi đau thương mất nước nên 13, 14 tuổi đã xác định được con đường nối gót theo cha chú thoát ly lên chiến khu tham gia cách mạng. Em trai tôi, Phạm Phương, 15 tuổi đã hy sinh trong một cuộc chiến ở rừng Trà Đông (Trà My)…”.
2. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, Tỉnh Thủy nổi tiếng như một nơi cung cấp cá, mắm cho bộ đội ở chiến khu; là nơi cung cấp nhân lực cho cách mạng với trên 500 nam thanh nữ tú lên đường đánh giặc.
Ở làng biển nhỏ bé này, chỉ với vài ba trăm hộ dân mà đã có 319 người hy sinh được công nhận liệt sĩ; Nhà nước phong tăng 87 bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Với những người con làng biển Tỉnh Thủy, trong ký ức đau thương vẫn còn đó những tên đất, tên người kiên trung như ông Ba Tùng luôn dọc ngang trên các nẻo đường giao liên nguy hiểm; những cuộc thoát hiểm của Đội trưởng đội công tác xã Kỳ Anh Đông-Nguyễn Trường Sơn. Hay như những địa danh: đồi cát Bà Lan, đồi cát Bà Lau, dốc Ông Hòe, đồi cát Ông Bánh, giếng bộng của làng..., tất cả đã trở thành chứng nhân của lịch sử, của tinh thần đấu tranh không khuất phục.
Tròn 50 năm sau ngày quê hương giải phóng, nhân dân Tỉnh Thủy đã phát huy truyền thống anh hùng, liên tục phấn đấu tái thiết, dựng xây quê hương. Sự đổi thay trên quê hương Tỉnh Thủy bắt đầu từ phát triển ngư nghiệp, đó là nghề gắn bó bao thế hệ người dân địa phương.
Hiện nay toàn thôn có hàng trăm phương tiện đánh bắt hải sản, có 20ha nuôi trồng thủy sản; các ngành nghề dịch vụ, buôn bán, chế biến hải sản được mở rộng. Phương thức, nếp nghĩ về làm ăn trong thế hệ trẻ đã thay đổi theo hướng tích cực, hiện đại và hiệu quả. Đời sống nhân dân từng bước phát triển. Đường làng ngõ xóm được bê tông hóa, nhựa hóa; nhà cửa, các tiện nghi sinh hoạt khá đầy đủ, khang trang...
Ra đi từ làng biển, những người con của biển lại trở về với biển, thả những bước chân trên bãi biển một sớm mai nắng gió, vốc trên tay từng nắm cát mặn mòi vị biển mà thấm thía tình đất tình người, mà nghĩ về một tương lai bừng sáng của đổi thay trên ngôi làng từng một thời đau thương nhưng quá đổi hào hùng…