(VHQN) - Đầu xuân, “ăn cơm mới, nói chuyện cũ” có sao không? Càng vui chứ sao. Từ truyện cổ tích trầu cau cho đến chuyện đạo lý người Việt, đủ vọng dư âm trong những ngày tết nhứt....
“Lĩnh Nam chích quái” là một trong những tác phẩm văn học dân gian đầu tiên của Việt Nam, viết bằng chữ Hán văn xuôi, rất quý hiếm còn lại từ thời Lý, Trần. Một trong những cổ tích của người Việt cổ trong “Lĩnh Nam chích quái”, có truyện cây cau (Tân Lang truyện).
Đạo lý từ ngàn đời
Có lẽ không cần phải tóm lược lại nội dung, tôi tin mọi người đều nhớ và có thể kể lại vanh vách. Ở thời vua Hùng Vương dựng nước, có hai anh em Tân và Lang giống nhau như tạc...
Làm sao người ngoài có thể phân biệt? Bằng cách nào? Chi tiết này khiến ta càng thấm thía hơn ý nghĩa của bữa ăn gia đình. “Ngày nọ cô gái tuổi trăng tròn mời hai anh em đến nhà dùng bữa: “Cô gái bày cháo và một đôi đũa mời hai người ăn để quan sát anh em họ. Thấy người em nhường cho anh ăn trước, cô gái bèn đem sự thực trình bày với cha mẹ, xin gả mình cho người anh”.
Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng đã phản ánh phong tục, tập quán của người Việt cổ. Rằng, khi vào bữa cơm gia đình, các thành viên bao giờ cũng chờ bậc trưởng thượng cầm đũa thì mới dám làm theo.
Sở dĩ nhắc lại để thấy rằng, câu chuyện về cây cau là của người Việt đã xuất hiện từ thời thượng cổ, chứ không phải “nguỵ tạo” sau này. Vậy nên, từ muôn đời nay hễ mỗi lần đến dịp trọng đại, phải có trầu cau là do đâu? Cứ theo như “Lĩnh Nam chích quái” là sau khi chết người em hóa thành “cái cây mọc ở nơi cửa suối”, người anh thành “một phiến đá cuộn lấy gốc cây”, người vợ hóa thành “một dây leo cuốn quanh phiến đá, lá có vị thơm cay”.
Rõ ràng cả ba nhưng là một. Mạo muội nghĩ xa một chút, chi tiết này liệu có “dự báo gì về ba miền Bắc - Trung - Nam sau này không?”. Tức là dù ba miền nhưng là khối thống nhất mà không ai, không gì có thể chia rẽ, chia cắt.
Với suy nghĩ này, ta càng cảm thấy ấm lòng và càng yêu mến nhiều hơn nữa chuyện trầu cau. Không phải bây giờ mà ngay thời vua Hùng: “Bấy giờ, những người đi qua đến đều thắp hương vái lạy, ca ngợi tình anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa của họ”.
“Miếng trầu là đầu câu chuyện”
Miếng trầu - hình ảnh quen thuộc đã đi vào văn chương. Chẳng hạn, nhà văn Tô Nguyệt Đình, người miền Nam, đã miêu tả động tác ăn trầu của bà Phán, sau khi lạy Phật xong: “Bà Phán mới ngồi xề lại chiếc ghế dựa, mở ô lấy một lá trầu vàng, bệt vôi bỏ vô miệng nhai nhóc nhách. Bà lại lấy miếng cau tươi mà chị ở bổ sẵn, một cọng vỏ giấy rồi bỏ vô miệng nhai luôn..”.
Một khi xác định từ sinh hoạt hằng ngày, qua đó đã chứng minh văn hóa Việt là một khối thống nhất, tương đồng trong dị biệt, thế thì, việc ăn trầu không hề riêng biệt vùng miền.
Ngày còn nhỏ, tôi còn thấy trong đám giỗ, hội hè, ngày Tết... bao giờ trong nhà cũng có cơi trầu. Đàn ông ăn trầu, đàn bà cũng ăn trầu. Vừa nhai trầu, vừa trò chuyện vui vẻ, khi cần nhổ thì cái ống nhổ đã đặt sẵn dưới sạ, phản, giường đang ngồi, rõ ràng cũng y chang như bà Phán đó thôi.
Vậy, xin giải thích thêm đôi nét, từ đoạn văn trên để nhìn thấy cách ăn trầu ở miền Nam cũng giống người Quảng Nam. Khi bà Phán “mở ô” thì ô ở đây là ô trầu, hộp đựng trầu, còn có thể đựng trong cái cơi, vì thế mới có câu ca dao: “Đàn ông nông nổi giếng thơi/ Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”. Thơi là “sâu hoăm hoắm.
Thường nói về giếng sâu” - Việt Nam tự điển (1931) giải thích; còn cơi thì ngược lại là nông choèn choẹt. Đây là cách nói ngược, tréo ngoe cỡ như: “Thật thà như thể lái trâu/ Thương nhau như thể nàng dâu mẹ chồng”. Tiếng Việt mình đó, cách diễn đạt “tưởng dzậy mà hổng phải dzậy” mới quái làm sao!
Lúc bà Phán lấy “một cọng vỏ giấy rồi bỏ vô miệng nhai luôn”. Vỏ này là vỏ cây chay, người ta đã đập cho tơi thành sợi, có thế thì mới thêm đậm đà hương vị, càng ngon, bởi lẽ: “Ăn trầu mà có vỏ chay/ Vôi kia có nhạt cũng cay được mồm (ca dao)...
Một khi đã biết sự tích về “tình anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa”, ta càng thấm thía vì sao trong cách lễ vật dâng lên bàn thờ ông bà ông vải, đám cưới, đám hỏi, giỗ quẩy… bao giờ cũng có trầu cau. Từ đó mới nhìn thấy rằng, người Việt mình không thể “mất gốc”, nếu vẫn giữ lấy “đất lề quê thói” tốt đẹp lưu truyền từ ngàn xưa.
Câu chuyện về sự tích trầu cau đã có từ thời vua Hùng, trải qua hơn bốn ngàn năm, binh đao chiến tranh, loạn lạc, đồng hóa của ngoại xâm… nhưng rồi đạo lý về tiết nghĩa vợ chồng, tình máu mủ ruột thịt vẫn còn đó. Đạo lý của người Việt mình, ngàn đời vẫn còn. Ngàn đời không mất. Nói như Hoàng giáp Vũ Quỳnh chính là “sự liên quan đến cương thường, mở mang phong hóa đâu phải là ít”.